Vào 14g ngày 22/10/2025, Viện Pháp (Institut Francais) tổ chức buổi toạ đàm (Table ronde) giữa cộng đồng văn học Việt Nam tại Thành phố Đà Nẵng với nhà văn Pháp, Camille Laurens; Sự kiện được tổ chức tại Đại học Ngoại ngữ Đà Nẵng, tôi được phân công làm trưởng đoàn nhà văn Đà Nẵng tham gia buổi giao lưu nói trên. Nhân đây, xin chia sẻ một số thông tin về nhà văn lớn này của nước Pháp.
I. Thân thế và sự nghiệp:
Laurence Ruel (6/ 11/ 1957), được biết đến với bút danh Camille Laurens, là một nhà văn nữ, người Pháp; bà đoạt giải Prix Femina năm 2000 cho tác phẩm “Dans ces bras-là” (Trong vòng tay ấy). Camille Laurens tốt nghiệp ngành nhân văn và đã giảng dạy tại các trường Đại học ở Pháp, Maroc… Bà từng là thành viên ban giám khảo của Giải thưởng Femina, hiện bà là thành viên của Viện Hàn lâm Goncourt.
Bộ tứ gồm bốn
tiểu thuyết đầu tay của Camille Laurens: Index (1991), Rmance (1992), Les
Travaux d'Hercule (1994), và L'Avenir (1998) cho thấy đặc trưng
phong cách của bà là sự hư cấu cao độ, Philippe Savary mô tả là "một sự phản
ánh sâu sắc về mối quan hệ giữa hư cấu và thực tế, ảo tưởng và sự thật" và
một sự chuyển mình sâu sắc trong nghệ thuật của bà, từ hư cấu tự thân
sang tự truyện. Vì vậy, từ những năm 1990 trở đi, bà đã phát triển tác phẩm
ngày càng hướng nội và mối quan hệ của mình với người khác, hướng đến khát vọng
trong hàng loạt tác phẩm: Dans ces bras-là (2000), Ni toi ni
moi (2006) và Romance nerveuse (2010).
Ngoài tiểu thuyết,
Camille Laurens còn là tác giả của một số bài luận về các chủ đề: sự thể hiện của
phụ nữ trong nghệ thuật và mức độ mà tính nữ bị cấm kỵ trong ý thức tập thể (Les
Fiancées du Diable - 2011); hành động lặp lại trong nghệ thuật hay chứng loạn
thần kinh (Encore et jamais - 2013)…
Nhiều tác phẩm của
bà đã nhận được các giải thưởng cao quý như: Giải Femina và Giải Prix
Renaudot des lycéens cho Dans ces bras-là (2000), Lọt vào vòng chung kết
giải thưởng Prix Goncourt cho tác phẩm Ni toi ni moi (2006),
Giải thưởng Bourgogne de littérature cho Tissé par mille (2008), Giải thưởng
David de l'expertise cho La Petite Danseuse de 14 ans (2016)…
II. Một số trích dẫn từ các tác phẩm của Camille Laurens:
1. “Chúng ta
không thể sống ở tuổi bảy mươi lăm, không, nhưng chúng ta có thể bắt đầu.” (We can't life at seventy-five, no, but we
can start it.)
2. “Chậm rãi,
đó là cấp độ không của cảm hứng: như một lá thư mà họ chỉ viết: Anh yêu em.” (A slow, it is the degree zero of
inspiration: as a letter where they'd only put: I love you.)
3. “Im lặng là
sự từ chối thuộc về.” (Silence is a
refusal to belong.)
4. “Bất kỳ bức
thư tình nào cũng là một bức thư pháp của tương lai.” (Any love letter is a calligram of the future.)
5. “Có điều gì
đó phấn khích và truyền tải những sự thật trần trụi để quan sát trên khuôn mặt
của những biến đổi khác mà chúng vận hành.” (There
is something exhilarating and deliver the raw facts to be observed on the face
of the other transformations that they operate.)
6. “Viết là
chuyển thành lời những suy nghĩ, sự thật, cảm xúc, cảm giác, cơ thể, xác thịt,
sự im lặng. Cuộc sống là ngôn ngữ xa lạ của nhà văn.” (To write is to translate into words thoughts, facts, feelings,
sensations, the body, the flesh, the silence. Life is the foreign language of
the writer.)
7. “Chúng ta có
thể hiểu những cuốn sách khi chúng ta đau khổ?” (What can we understand the books when we suffered?)
8. “Chúng ta có
thể quyến rũ bất kỳ ai bằng những lời lẽ viết cho họ trên một tờ giấy. Đó là một
sức mạnh kỳ diệu, phi thường, quái dị, dù ít được sử dụng: thư tình thật đáng gờm,
nhưng lại có hiệu quả vô cùng bí ẩn.” (We
can seduce anyone with words written for him on a sheet of paper. It is a power
amazing, phenomenal, monstrous, albeit little-used: the love letter is formidable,
but unknown effectiveness.)
9. “Đọc, đó là
nhìn cái chết mà không thấy, không tin, trống rỗng” (Read, it's watching death without seeing, without believing, gapin)
10. “Theo định
nghĩa, tất cả đàn ông đều đã có chủ. Nhưng với một số người, vẫn còn trò chơi.”
(By definition, all men are taken. But
for some, there is the game.)
11. “Bạn có thể
xuất hiện mà không cần khỏa thân không?” (Can
you show without being naked?)
12. “Tình dục
là điên rồ khi, thay vì kết nối, nó lại chia cắt, đưa người đàn ông đến với cơn
mê sảng của sự cô đơn.” (Sex is madness
when, rather than unite, it separates, referring the man to the delirium of his
solitude.)
13. “Tình yêu
không phải là một mối quan hệ xã hội. Nó không nói, đây là những điều không được
nói ra. Tình yêu được diễn đạt bằng im lặng hoặc tiếng khóc.” (Love is not a social relationship. It does
not say, these are things that are not said. Love is translated in silence or
cry.)
14. “Tình đầu
là vĩnh cửu, thời gian không trôi qua, đó là nguyên lý của tình yêu.” (First love is eternal, time does not pass,
it is the principle of love.)
III. Câu hỏi giao lưu:
Câu 1: Tôi đọc một tiểu luận trên
tờ WORLD LITERATURE TODAY (online), được biết bà có cuốn tiểu thuyết năm 2016 “Celle
que vous croyez” (Who You Think I Am – Bạn
nghĩ tôi là ai). Đây là một trong những tác phẩm nổi tiếng và gây nhiều
tranh cãi của bà; đặc biệt sau khi nó được chuyển thể thành phim điện ảnh cùng
tên, trong tác phẩm có đề cập đến bản sắc/ tính cách và nữ quyền trong thời đại
kỹ thuật số.
Xin bà nói rõ hơn về điều này - đối với phụ nữ Pháp và
có thể mở rộng ra với phụ nữ thế giới. Thông điệp của bà trong tác phẩm này là
gì?
Câu 2: Nhiều tác phẩm của bà mang
tính hư cấu kết hợp với tự truyện (Fiction
– Autobiography, gọi tắt là autofiction)
như: Philippe (1995), Dans ces
bras-là (In His Arms) (2000), Fille (Bản dịch tiếng Việt - Con gái) (2010),
Celle que vous croyez (Bản tiếng Anh: Who
You Think I Am) (2016), Ta promesse (Bội
ước).
Bà đặt ranh giới giữa hiện thực đời sống cá nhân và hư
cấu như thế nào khi viết các tác phẩm autofiction
nói trên?
Phải chăng nó cho thấy chất liệu sống của bà rất phong
phú?
Liệu việc viết từ chất liệu chính mình như vậy có phải
là một hình thức chữa lành hay bà có thông điệp nào khác về mặt xã hội?
Câu 3: Bên cạnh sự bùng nổ của
ngôn từ, các nhân vật của bà đôi khi phải đối mặt với sự im lặng (mất khả năng
nói, im lặng sau mất mát). Sự im lặng
giữ vai trò gì trong văn chương của bà? Đó có phải là một hình thức giao tiếp
hay một nơi ẩn náu cuối cùng?
Câu 4: Đề
tài tình yêu chiếm một dung lượng lớn trong các tác phẩm của bà và thường đi kèm với các trạng
thái: chiếm hữu, ghen tuông, cảm giác lạc lối…
Đó la sự phản ảnh xã hội hay
lăng kính tự truyện của bà. Qua đó, bà định nghĩa tình yêu trong thời đại hiện
đại như thế nào?
Với tư cách là một nhà văn nữ, bà thường viết về những
trải nghiệm đặc thù của phụ nữ trong xã hội. Sau nhiều thập kỷ, bà cảm thấy vị thế của người phụ nữ trong văn học Pháp
đã thay đổi như thế nào, và đâu là thách thức lớn nhất còn lại?
Câu 5: Xin
cho biết những nhà văn hoặc nhà tư tưởng nào đã có ảnh hưởng sâu sắc đến cách
bà nhìn nhận về việc viết, đặc biệt là về chủ đề thân phận phụ nữ và ngôn ngữ?
Câu 6: Bà có quan tâm (hoặc tối thiểu là có biết) đến văn học
Việt Nam không? Nếu biết, bà có thể phát biểu đôi điều về nền văn học của chúng
tôi trong mối tương quan với văn học toàn cầu hoặc trong suy nghĩ của bà – điều
tôi muốn nói ở đây bao gồm cả tác giả đang sống/ viết tại Việt Nam và cả một số
tác giả đang sống/ viết tại Pháp.
Câu 7: Hiện nay, nền văn học Pháp
(nói riêng) chỉ mới tiếp cận bạn đọc Việt Nam qua kênh “thị trường”; trong
tương lai, chúng ta có thể thông qua kênh “hữu nghị” hoặc bản quyền một lần (Royalty-Free) để đưa một số tác phẩm
văn học đương đại Pháp đến với độc giả Việt Nam, theo bà điều này có thể xúc tiến
được không?
-----------
References:


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét