“Con sói cuối cùng” (tiếng Hungari: Az utolsó farkas, bản tiếng Thuỵ Điển: Den sista vargen, bản tiếng Anh: The Last Wolf) là tác phẩm hư cấu của László Krasznahorkai (2009) gồm hai truyện vừa (novella): “The Last Wolf” và “Herman”. Bản tiếng Anh do George Szirtes và John Batki dịch năm 2016. Hai truyện vừa này được viết vào hai thời điểm khác nhau (Herman viết 1998) nhưng khi viết xong The Last Wolf (2009), tác giả đã gộp chung khi xuất bản, vì cả hai có rất nhiều điểm liên kết trong cùng một tập.
Tác phẩm viết theo lời người
kể chuyện – Krasznahorkai, kinh điển, đầy ám ảnh. Cả hai truyện đều có chủ đề về
săn bắn và mối quan hệ của con người với động vật, trong đó tập trung vào chuyện về những người đàn ông đang săn đuổi những
loài động vật có thể đã tuyệt chủng hoặc sắp tuyệt chủng.
- "The Last
Wolf": kể về một giáo sư bị ám ảnh bởi một câu nói trên tạp chí khoa học rằng
con sói cuối cùng đã chết ở Extremadura, một vùng đất cằn cỗi của Tây Ban Nha vào
năm 1983. Người kể chuyện bị mắc kẹt trong chính trải nghiệm của mình (đã nội
tâm hóa sự tuyệt chủng của sinh vật cuối cùng trong sâu thẳm trái tim lạnh lẽo,
trống rỗng, trống rỗng của chính mình). Cuốn sách đưa người đọc vào chính kiểu
bẫy tương tự cho đến tận cuối truyện, với dấu chấm câu đầu tiên của cuốn sách.
- "Herman" - gồm
2 phần: Herman I, The Game Warden và Herman II, The Death of a Craft - kể về một
người thợ bẫy thú tên là Herman, được mô tả là “người canh giữ những bí ẩn tuyệt
vời của một nghề thủ công cổ xưa đang dần chìm vào quên lãng vĩnh viễn”. Ông được
giao nhiệm vụ loại bỏ những loài thú dữ "có hại" khỏi một khu rừng,
nhưng sau đó anh ta phát hiện ra rằng có thể mình đang đi "sai hướng"
và quyết định săn lùng những con thú dữ khác. Trải nghiệm đau khổ này (do bị nhầm
lẫn với một con sói khác, bị kéo lê khắp một vùng đất xa lạ lạnh lẽo, kinh
hoàng trước sự diệt vong của loài thú) được kể lại - tất cả chỉ trong một câu -
như một câu chuyện buồn lặp đi lặp lại, một tiếng hú, ít nhiều, trong một quán
bar Berlin mùa đông ảm đạm dành cho một người pha chế rõ ràng đang buồn chán.
Phong cách tác phẩm thể
hiện đặc trưng của Krasznahorkai, với những câu văn dài, lặp đi lặp lại, tạo ra
một dòng suy nghĩ phức tạp và ám ảnh.
***
Tôi lưu lại một số đoạn
văn hay trong tác phẩm này:
1. “Làm sao ông có thể
mô tả điều gì đã đè nặng ông đến vậy, làm sao ông có thể giải thích được từ bao
lâu nay ông đã từ bỏ ý tưởng về tư duy, thời điểm mà ông lần đầu tiên hiểu được
cách mọi vật vận hành và biết rằng bất kỳ ý thức nào chúng ta có về sự tồn tại
chỉ đơn thuần là lời nhắc nhở về sự phù phiếm không thể hiểu nổi của sự tồn tại,
một sự phù phiếm sẽ lặp lại vô tận, cho đến tận cùng thời gian và rằng, không,
đó không phải là vấn đề ngẫu nhiên và sức mạnh phi thường, vô tận, chiến thắng,
bất khả chiến bại của nó đang hoạt động để đưa mọi thứ đến sự ra đời hoặc hủy
diệt, mà đúng hơn là vấn đề về một mục đích ma quỷ mờ ám, một thứ gì đó ẩn sâu
trong trái tim của mọi thứ, trong kết cấu của mối quan hệ giữa các thứ, mùi hôi
thối của mục đích đó tràn ngập từng nguyên tử, rằng đó là một lời nguyền rủa, một
hình thức nguyền rủa, rằng thế giới là sản phẩm của sự khinh miệt, và Chúa phù
hộ cho sự tỉnh táo của những kẻ tự gọi mình là nhà tư tưởng,”
2. “... đó là lý do tại
sao ông không còn suy nghĩ nữa, đã học cách không suy nghĩ nữa, tất nhiên, điều
này không dẫn đến đâu cả, bởi vì bất cứ nơi nào Anh nhìn, dù quay theo hướng
nào, cũng thấy mùi hôi thối nồng nặc, mùi hôi thối đó ở đó bởi vì từ cuối cùng,
từ ngữ bao hàm kiến thức rằng sự phù phiếm và khinh miệt, đầy mục đích, song
hành với thế giới, chính là thế giới, là điều anh phải ý thức, một cõi vĩnh hằng
của sự phù phiếm và khinh miệt hiện hữu trong từng giây phút của cuộc đời đối với
những ai đã đặt chân lên con đường tư duy, sự phù phiếm bởi vì ngay khi bạn từ
bỏ suy nghĩ và cố gắng đơn giản nhìn vào sự vật, suy nghĩ lại xuất hiện dưới một
hình thức mới, nói cách khác, một hình thức mà, nói cách khác, không có lối
thoát cho dù con người nghĩ hay không nghĩ, bởi vì dù theo cách nào đi nữa, anh
vẫn là tù nhân của suy nghĩ, và mũi anh đau nhói vì mùi hôi thối của nó, vậy
nên anh có thể làm gì ngoài việc tự an ủi mình bằng suy nghĩ rằng các sự kiện
chỉ đơn giản là diễn ra theo quy trình tự nhiên của chúng...”
3. “...ông hiểu rằng mọi
thứ chúng ta nhận thức từ sự tồn tại chẳng qua chỉ là một tượng đài vô nghĩa, lặp
đi lặp lại cho đến tận cùng thời gian, và không, không phải ngẫu nhiên sắp xếp
nó với sức mạnh khủng khiếp, vô tận, chiến thắng, bất khả chiến bại của nó, để
mọi thứ sinh ra và sụp đổ, mà đúng hơn là một ý định mơ hồ, ma quỷ đang hoạt động
ở đây, và điều này được tích hợp vào mọi thứ và kết cấu của các trạng thái giữa
các sự vật đến mức mùi hôi thối của ý định tràn ngập mọi thứ, do đó thế giới là
một lời nguyền, một tác phẩm của sự khinh miệt, đây là điều đánh vào não của người
bắt đầu suy nghĩ, vì vậy anh ta không suy nghĩ, anh ta đã học cách không suy
nghĩ nữa, điều đó tất nhiên không dẫn đến đâu, bởi vì anh ta cảm thấy mùi hôi
thối đó ở bất cứ đâu anh ta nhìn, bất cứ nơi nào anh ta quay đầu, mùi hôi thối
này ở đó, bởi vì sau tất cả, sự phán xét, cũng đồng nhất với thế giới, cũng chứa
đựng rằng cả sự vô ích và sự khinh miệt, mang hình thức của ý định, phải nhận
thức được cả sự vô ích và sự khinh miệt, liên tục, tại mọi khoảnh khắc, bất cứ
ai bắt đầu suy nghĩ, nhưng nó là đủ để từ bỏ suy nghĩ và chỉ nhìn vào sự vật,
và suy nghĩ theo một hình thức mới đã nảy sinh, nghĩa là, người ta không thể giải
thoát bản thân, dù có suy nghĩ hay không, trong mọi trường hợp, người ta vẫn là
tù nhân của suy nghĩ, và mùi hôi thối làm mũi người ta khó chịu khủng khiếp, vậy
thì người ta có thể làm gì, tự lừa dối mình, tự lừa dối mình bằng cách để mọi
thứ diễn ra tự nhiên..."
-----
References:
2. goodread
3. wikipedia
* Mộc Nhân tuyển dịch và biên tập từ các nguồn nên trên.


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét