18/10/25

3.668. THE LAST WOLF - László Krasznahorkai

  “Con sói cuối cùng” (tiếng Hungari: Az utolsó farkas, bản tiếng Thuỵ Điển: Den sista vargen, bản tiếng Anh: The Last Wolf) là tác phẩm hư cấu của László Krasznahorkai (2009) gồm hai truyện vừa (novella): “The Last Wolf” và “Herman”. Bản tiếng Anh do George Szirtes và John Batki dịch năm 2016. Hai truyện vừa này được viết vào hai thời điểm khác nhau (Herman viết 1998) nhưng khi viết xong The Last Wolf (2009), tác giả đã gộp chung khi xuất bản, vì cả hai có rất nhiều điểm liên kết trong cùng một tập.


Tác phẩm viết theo lời người kể chuyện – Krasznahorkai, kinh điển, đầy ám ảnh. Cả hai truyện đều có chủ đề về săn bắn và mối quan hệ của con người với động vật, trong đó tập trung vào  chuyện về những người đàn ông đang săn đuổi những loài động vật có thể đã tuyệt chủng hoặc sắp tuyệt chủng.

- "The Last Wolf": kể về một giáo sư bị ám ảnh bởi một câu nói trên tạp chí khoa học rằng con sói cuối cùng đã chết ở Extremadura, một vùng đất cằn cỗi của Tây Ban Nha vào năm 1983. Người kể chuyện bị mắc kẹt trong chính trải nghiệm của mình (đã nội tâm hóa sự tuyệt chủng của sinh vật cuối cùng trong sâu thẳm trái tim lạnh lẽo, trống rỗng, trống rỗng của chính mình). Cuốn sách đưa người đọc vào chính kiểu bẫy tương tự cho đến tận cuối truyện, với dấu chấm câu đầu tiên của cuốn sách.

- "Herman" - gồm 2 phần: Herman I, The Game Warden và Herman II, The Death of a Craft - kể về một người thợ bẫy thú tên là Herman, được mô tả là “người canh giữ những bí ẩn tuyệt vời của một nghề thủ công cổ xưa đang dần chìm vào quên lãng vĩnh viễn”. Ông được giao nhiệm vụ loại bỏ những loài thú dữ "có hại" khỏi một khu rừng, nhưng sau đó anh ta phát hiện ra rằng có thể mình đang đi "sai hướng" và quyết định săn lùng những con thú dữ khác. Trải nghiệm đau khổ này (do bị nhầm lẫn với một con sói khác, bị kéo lê khắp một vùng đất xa lạ lạnh lẽo, kinh hoàng trước sự diệt vong của loài thú) được kể lại - tất cả chỉ trong một câu - như một câu chuyện buồn lặp đi lặp lại, một tiếng hú, ít nhiều, trong một quán bar Berlin mùa đông ảm đạm dành cho một người pha chế rõ ràng đang buồn chán.

Phong cách tác phẩm thể hiện đặc trưng của Krasznahorkai, với những câu văn dài, lặp đi lặp lại, tạo ra một dòng suy nghĩ phức tạp và ám ảnh.

***

Tôi lưu lại một số đoạn văn hay trong tác phẩm này:

1. “Làm sao ông có thể mô tả điều gì đã đè nặng ông đến vậy, làm sao ông có thể giải thích được từ bao lâu nay ông đã từ bỏ ý tưởng về tư duy, thời điểm mà ông lần đầu tiên hiểu được cách mọi vật vận hành và biết rằng bất kỳ ý thức nào chúng ta có về sự tồn tại chỉ đơn thuần là lời nhắc nhở về sự phù phiếm không thể hiểu nổi của sự tồn tại, một sự phù phiếm sẽ lặp lại vô tận, cho đến tận cùng thời gian và rằng, không, đó không phải là vấn đề ngẫu nhiên và sức mạnh phi thường, vô tận, chiến thắng, bất khả chiến bại của nó đang hoạt động để đưa mọi thứ đến sự ra đời hoặc hủy diệt, mà đúng hơn là vấn đề về một mục đích ma quỷ mờ ám, một thứ gì đó ẩn sâu trong trái tim của mọi thứ, trong kết cấu của mối quan hệ giữa các thứ, mùi hôi thối của mục đích đó tràn ngập từng nguyên tử, rằng đó là một lời nguyền rủa, một hình thức nguyền rủa, rằng thế giới là sản phẩm của sự khinh miệt, và Chúa phù hộ cho sự tỉnh táo của những kẻ tự gọi mình là nhà tư tưởng,”

 

2. “... đó là lý do tại sao ông không còn suy nghĩ nữa, đã học cách không suy nghĩ nữa, tất nhiên, điều này không dẫn đến đâu cả, bởi vì bất cứ nơi nào Anh nhìn, dù quay theo hướng nào, cũng thấy mùi hôi thối nồng nặc, mùi hôi thối đó ở đó bởi vì từ cuối cùng, từ ngữ bao hàm kiến ​​thức rằng sự phù phiếm và khinh miệt, đầy mục đích, song hành với thế giới, chính là thế giới, là điều anh phải ý thức, một cõi vĩnh hằng của sự phù phiếm và khinh miệt hiện hữu trong từng giây phút của cuộc đời đối với những ai đã đặt chân lên con đường tư duy, sự phù phiếm bởi vì ngay khi bạn từ bỏ suy nghĩ và cố gắng đơn giản nhìn vào sự vật, suy nghĩ lại xuất hiện dưới một hình thức mới, nói cách khác, một hình thức mà, nói cách khác, không có lối thoát cho dù con người nghĩ hay không nghĩ, bởi vì dù theo cách nào đi nữa, anh vẫn là tù nhân của suy nghĩ, và mũi anh đau nhói vì mùi hôi thối của nó, vậy nên anh có thể làm gì ngoài việc tự an ủi mình bằng suy nghĩ rằng các sự kiện chỉ đơn giản là diễn ra theo quy trình tự nhiên của chúng...”

 

3. “...ông hiểu rằng mọi thứ chúng ta nhận thức từ sự tồn tại chẳng qua chỉ là một tượng đài vô nghĩa, lặp đi lặp lại cho đến tận cùng thời gian, và không, không phải ngẫu nhiên sắp xếp nó với sức mạnh khủng khiếp, vô tận, chiến thắng, bất khả chiến bại của nó, để mọi thứ sinh ra và sụp đổ, mà đúng hơn là một ý định mơ hồ, ma quỷ đang hoạt động ở đây, và điều này được tích hợp vào mọi thứ và kết cấu của các trạng thái giữa các sự vật đến mức mùi hôi thối của ý định tràn ngập mọi thứ, do đó thế giới là một lời nguyền, một tác phẩm của sự khinh miệt, đây là điều đánh vào não của người bắt đầu suy nghĩ, vì vậy anh ta không suy nghĩ, anh ta đã học cách không suy nghĩ nữa, điều đó tất nhiên không dẫn đến đâu, bởi vì anh ta cảm thấy mùi hôi thối đó ở bất cứ đâu anh ta nhìn, bất cứ nơi nào anh ta quay đầu, mùi hôi thối này ở đó, bởi vì sau tất cả, sự phán xét, cũng đồng nhất với thế giới, cũng chứa đựng rằng cả sự vô ích và sự khinh miệt, mang hình thức của ý định, phải nhận thức được cả sự vô ích và sự khinh miệt, liên tục, tại mọi khoảnh khắc, bất cứ ai bắt đầu suy nghĩ, nhưng nó là đủ để từ bỏ suy nghĩ và chỉ nhìn vào sự vật, và suy nghĩ theo một hình thức mới đã nảy sinh, nghĩa là, người ta không thể giải thoát bản thân, dù có suy nghĩ hay không, trong mọi trường hợp, người ta vẫn là tù nhân của suy nghĩ, và mùi hôi thối làm mũi người ta khó chịu khủng khiếp, vậy thì người ta có thể làm gì, tự lừa dối mình, tự lừa dối mình bằng cách để mọi thứ diễn ra tự nhiên..."

-----

References:

1. tonysreadinglist

2. goodread

3. wikipedia

* Mộc Nhân tuyển dịch và biên tập từ các nguồn nên trên.



Không có nhận xét nào: