9/10/25

3.658. ANNE CARSON – Quotes

   Chiều nay, thứ năm ngày 9 tháng 10 năm 2025, vào lúc 18:00 giờ Đông Dương, Uỷ ban Nobel - Viện hàn lâm Thuỵ Điển sẽ công bố Giải Nobel Văn học 2025 (Nobel Prize in Literature). Một cách chủ quan vì yêu thích và sự lôi cuốn như tham gia một gameshow, tôi đoán mò (randomly guessing) đặt cược cho một số tác giả nổi tiếng thế giới.



Trong số đó tôi quan tâm đến Anne Carson. Bà sinh năm 1950 là nhà thơ, nhà viết tiểu luận, giáo sư Văn học cổ điển và dịch giả người Canada. Theo các nhà nghiên cứu văn học: “Carson đã tạo nên một bước đột phá lớn, khơi dậy cả sự ghen tị và ngưỡng mộ” (Carson has been cutting a large swath, inciting both envy and admiration). Carson là "một triết gia về nỗi thống khổ" (a philosopher of heartbreak). Nhiều tác phẩm của bà dường như phi thể loại (unclassifiable), trong đó có sự kết hợp giữa tiểu thuyết, thơ, tiểu luận – cổ điển và hiện đại, nó “được thiết kế lại cho một đối tượng hoàn toàn mới, cuối cùng nó đã làm choáng váng các nhà thơ” (redesigned for an entirely new audience, it finally stunned the poets). Những sáng tạo trong tác phẩm của bà cho thấy bà là “một trong những người có khí chất thông minh kỳ lạ nhất đang hoạt động trong nền văn học đương đại" (one of the most idiosyncratic intelligences at work in contemporary literature).  Anne Carson là ứng viên sáng cho giải Nobel Văn học, dù chưa được xướng danh cho giải này nhưng bà vẫn là cây bút nổi tiếng của Văn học đương đại thế giới.

Bà đã nhận được nhiều danh hiệu và giải thưởng, bao gồm học bổng từ Quỹ Guggenheim, Quỹ MacArthur và Viện Hàn lâm Hoa Kỳ tại Berlin. Bà cũng đã nhận được Giải thưởng Văn học Lannan, Giải thưởng Pushcart, Giải thưởng Thơ Griffin…

***

Một số câu trích, lấy từ các tác phẩm của bà:

 

1. “Con nhớ quá nhiều rồi” - mẹ tôi gần đây đã nói với tôi như vậy, “Sao cứ giữ mãi những điều đó?” Và tôi đã trả lời: “Con biết đặt nó ở đâu bây giờ?” (You remember too much, my mother said to me recently. Why hold onto all that? And I said, Where can I put it down?)

 

2. “Tại sao bi kịch lại tồn tại? Bởi vì bạn đầy giận dữ. Tại sao bạn đầy giận dữ? Bởi vì bạn đầy đau buồn.” (Why does tragedy exist? Because you are full of rage. Why are you full of rage? Because you are full of grief.)

 

3. “Chạy như bay mà vẫn chưa đến đích, tự thân nó đã là một niềm vui, một khoảnh khắc lơ lửng của hy vọng sống.” (To be running breathlessly, but not yet arrived, is itself delightful, a suspended moment of living hope.)

 

4. “Anh có thể đến thăm em trong mơ không? Điều đó sẽ làm em vui lên. Thật tuyệt vời khi được gặp bạn bè vào ban đêm, dù thời gian có ngắn ngủi đến đâu.” (Could you visit me in dreams? That would cheer me. Sweet to see friends in the night, however short the time.)

 

5. “Tính từ là gì? Danh từ đặt tên cho thế giới. Động từ kích hoạt tên gọi. Tính từ đến từ một nơi khác. Từ tính từ (tiếng Hy Lạp: epitheton) tự nó là một tính từ có nghĩa là 'đặt lên trên', 'thêm vào', 'thêm vào', 'xa lạ'. Tính từ có vẻ là những sự bổ sung khá vô hại, nhưng hãy nhìn lại. Những cơ chế nhỏ bé được du nhập này đảm nhiệm việc gắn kết mọi thứ trên thế giới vào vị trí cụ thể của nó. Chúng là những chốt cửa của sự tồn tại.” (What is an adjective? Nouns name the world. Verbs activate the names. Adjectives come from somewhere else. The word adjective (epitheton in Greek) is itself an adjective meaning 'placed on top', 'added', 'appended', 'foreign'. Adjectives seem fairly innocent additions, but look again. These small imported mechanisms are in charge of attaching everything in the world to its place in particularity. They are the latches of being.)

 

6. “Kể một câu chuyện về cách con người làm tổn thương lẫn nhau dễ hơn là kể một câu chuyện về điều gì gắn kết họ lại với nhau.” (It is easier to tell a story of how people wound one another than of what binds them together.)

 

7. “Thực tế là một âm thanh, bạn phải lắng nghe nó chứ không chỉ la hét.” (Reality is a sound, you have to tune in to it not just keep yelling.)

 

8. “Những lời ta đọc và những lời ta viết không bao giờ diễn tả chính xác những gì ta muốn nói. Những người ta yêu không bao giờ đúng như ta mong muốn. Hai biểu tượng này không bao giờ hoàn toàn ăn khớp với nhau. Eros nằm ở giữa.” (The words we read and words we write never say exactly what we mean. The people we love are never just as we desire them. The two symbola never perfectly match. Eros is in between.)

 

9. “Khi ta khao khát em, một phần trong ta đã mất đi...” (When I desire you a part of me is gone...)

 

10. “Một người di chuyển xuyên thời gian. Nó chẳng có ý nghĩa gì ngoài việc, giống như một cây lao, một khi đã ném đi thì sẽ đến đích.”

 

11. “Thời gian không được tạo thành từ bất cứ thứ gì. Nó là một khái niệm trừu tượng. Chỉ là một ý nghĩa mà chúng ta áp đặt lên chuyển động.”

 

12. “Trích dẫn là gì? Trích dẫn (cùng nguồn gốc với quota) là một vết cắt, một phần, một lát cam của ai đó. Bạn mút miếng cam, vứt bỏ vỏ, rồi chuồn mất.” (What is a quote? A quote (cognate with quota) is a cut, a section, a slice of someone's orange. You suck the slice, toss the rind, skate away.)

 

13. “Đôi khi tôi mơ một câu và viết nó ra. Thường thì nó vô nghĩa, nhưng đôi khi nó lại như chìa khóa mở ra một thế giới khác.” (Sometimes I dream a sentence and write it down. It’s usually nonsense, but sometimes it seems a key to another world.)

 

14. “Đôi khi một hành trình tự nó trở nên cần thiết.” (Sometimes a journey makes itself necessary.)

 

15. “Khoảng cách trông như thế nào?” là một câu hỏi trực tiếp đơn giản. Nó trải dài từ một khoảng không vô định bên trong đến ranh giới của những gì có thể được yêu.” (How does distance look?" is a simple direct question. It extends from a spaceless within to the edge of what can be loved.)

 

16. “Không chạm vào nhau nhưng hòa quyện trong sự kinh ngạc như hai vết cắt song song trên cùng một cơ thể.” (Not touching but joined in astonishment as two cuts lie parallel in the same flesh.)

 

17. “Khi tôi khao khát em một phần của tôi đã biến mất.” (When I desire you a part of me is gone.)

 

18. “Em biến mất? Rồi quay trở lại. Tôi gọi đó là những khoảnh khắc của cái chết.” (You disappear? And then come back. Moments of death I call them.)

 

19. “Khát khao nhân đôi là tình yêu, và tình yêu nhân đôi là sự điên rồ. Sự điên rồ nhân đôi là hôn nhân.” (Desire doubled is love and love doubled is madness. Madness doubled is marriage.)

 

20. “Không có con người nào không có một thế giới.” (There is no person without a world.)

 

21. “Các triết gia nói rằng con người hình thành chính mình trong đối thoại.” (Philosophers say man forms himself in dialogue.)

 

22. “Ngươi nghi ngờ Chúa ư? Chính xác hơn, ta tin Chúa đã sáng suốt khi nghi ngờ ta. Rốt cuộc, sự chết là gì ngoài sự nghi ngờ thần thánh lóe lên trong chúng ta? Trong khoảnh khắc, Chúa trì hoãn sự đồng ý và bùm! chúng ta biến mất.” (You doubt God? Well more to the point I credit God with the good sense to doubt me. What is mortality after all but divine doubt flashing over us? For an instant God suspends assent and poof! we disappear.)

 

23. “Có lẽ điều khó khăn nhất khi mất đi người yêu là nhìn năm tháng cứ lặp lại.” (Perhaps the hardest thing about losing a lover is to watch the year repeat its days.)

 

24. “Tôi nhấn mạnh sự khác biệt giữa dấu ngoặc vuông và không có dấu ngoặc vuông vì nó sẽ ảnh hưởng đến trải nghiệm đọc của bạn, nếu bạn cho phép. Dấu ngoặc vuông rất thú vị, ngụ ý một không gian tự do cho cuộc phiêu lưu tưởng tượng.” (I emphasize the distinction between brackets and no brackets because it will affect your reading experience, if you will allow it. Brackets are exciting, imply a free space of imaginal adventure.)

 

25. “...Tôi đang nói về cái ác. Nó nở hoa. Nó ăn. Nó cười toe toét.” (I am talking about evil. It blooms. It eats. It grins.)

 

26. “Một tâm trí suy nghĩ không bị nuốt chửng bởi những gì nó biết. Nó vươn ra để nắm bắt một điều gì đó liên quan đến chính nó và kiến ​​thức hiện tại của nó (và có thể biết được ở một mức độ nào đó) nhưng cũng tách biệt khỏi chính nó và kiến ​​thức hiện tại của nó (không đồng nhất với những điều này). Trong bất kỳ hành động suy nghĩ nào, tâm trí phải vượt qua khoảng không gian giữa cái đã biết và cái chưa biết, kết nối cái này với cái kia nhưng vẫn giữ được sự khác biệt. Đó là một không gian gợi tình.” (A thinking mind is not swallowed up by what it comes to know. It reaches out to grasp something related to itself and to its present knowledge (and so knowable in some degree) but also separate from itself and from its present knowledge (not identical with these). In any act of thinking, the mind must reach across this space between known and unknown, linking one to the other but also keeping visible to difference. It is an erotic space.)

 

27. “Khi bạn đang yêu thì lúc nào cũng đã quá muộn - như các nhà thơ vẫn nói.” (When you are falling in love it is always already too late - as the poets say.)

 

28. “Tôi sẽ không bao giờ biết bạn nhìn thấy màu đỏ như thế nào và bạn cũng sẽ không bao giờ biết tôi nhìn thấy nó như thế nào.” (I will never know how you see red and you will never know how I see it.)

 

29. “Mọi huyền thoại đều là một mô hình được làm giàu, một mệnh đề hai mặt, cho phép người vận hành nó nói một đằng và ám chỉ một nẻo, để sống một cuộc đời hai mặt. Do đó, quan niệm được tìm thấy sớm trong tư tưởng cổ đại rằng tất cả các nhà thơ đều là kẻ nói dối. Và từ những lời nói dối chân thực của thơ ca đã nảy sinh một câu hỏi: Điều gì thực sự kết nối ngôn từ và sự vật?” (All myth is an enriched pattern, a two-faced proposition, allowing its operator to say one thing and mean another, to lead a double life. Hence the notion found early in ancient thought that all poets are liars. And from the true lies of poetry trickled out a question: What really connects words and things?)

 

30. “Nỗi đau buồn của bạn cũng lớn lao như sự huy hoàng của bạn: một vị thần nào đó đang cân nhắc cái này ngang bằng với cái kia.” (Your grief is as great as your splendor was: some god is weighing the one out equal to the other.)

 

31. “Tình yêu không khiến tôi dịu dàng hay tử tế.” (Love does not make me gentle or kind.)

 

32. “Lùng sục ý nghĩa của một từ, lùng sục lịch sử của một con người, chẳng ích gì khi mong đợi một luồng sáng. Ngôn từ của con người không có công tắc chính. Nhưng tất cả những vụ bắt cóc nhỏ bé trong bóng tối. Và rồi mạng lưới sáng chói, to lớn, run rẩy, chán nản, không hối hận, sủa inh ỏi trong tâm trí bạn khi bạn lật lại trang bạn đang cố gắng dịch...” (Prowling the meanings of a word, prowling the history of a person, no use expecting a flood of light. Human words have no main switch. But all those little kidnaps in the dark. And then the luminous, big, shivering, discandied, unrepentant, barking web of them that hangs in your mind when you turn back to the page you were trying to translate...)

 

33. “Chúng ta là nô lệ của các vị thần. Dù là vị thần gì” (We are slaves to the gods. Whatever gods are.)

 

34. “Một vết thương tự phát ra ánh sáng của riêng nó. Nếu tất cả đèn trong nhà đều tắt bạn có thể băng bó vết thương này bằng thứ phát sáng từ nó.” (A wound gives off its own light surgeons say. If all the lamps in the house were turned out you could dress this wound by what shines from it.)

 

35. “Tôi là một giọt vàng. Tôi là vật chất nóng chảy trở về từ lõi trái đất để nói với bạn những điều sâu thẳm” (I am a drop of gold he would say. I am molten matter returned from the core of earth to tell you interior things).

 

36. “Bạn bè biến mất hoặc họ bất lực. Đây chính là ý nghĩa của bất hạnh, một phép thử khắc nghiệt về tình bạn. Tôi không muốn điều đó xảy ra với bất kỳ ai.” (Friends disappear or they are powerless. This is what misfortune means, an acid test of friendship. I wouldn't wish it on anyone.)

 

37. “Đó là giờ phút tuyết chuyển sang màu xanh, đèn đường bật sáng và một chú thỏ có thể dừng lại trên hàng cây, bất động như một từ trong sách.” (It was the hour when snow goes blue and streetlights come on and a hare may pause on the tree line as still as a word in a book)

 

38. “Dưới đáy đại dương là một lớp nước chưa bao giờ chuyển động…” (At the bottom of the ocean is a layer of water that has never moved…)


39. “Con người đang yêu thật đáng sợ. Bạn thấy họ lao vào nhau đói khát như những con sói thời tiền sử, bạn thấy thứ gì đó đang đấu tranh sinh tồn giữa họ như một cái rễ hay một linh hồn và nó bùng cháy trong giây lát, rồi họ đập vỡ nó” (Humans in love are terrible. You see them come hungering at one another like prehistoric wolves, you see something struggling for life in between them like a root or a soul and it flares for a moment, then they smash it.)


Mộc Nhân biên dịch từ nhiều nguồn với các từ khoá: Anne Carson - Quotes - Nobel Prizes - Goodread...



 

Không có nhận xét nào: