Chiều nay, thứ năm ngày 9 tháng 10 năm 2025, vào lúc 18:00 giờ Đông Dương, Uỷ ban Nobel - Viện hàn lâm Thuỵ Điển sẽ công bố Giải Nobel Văn học 2025 (Nobel Prize in Literature). Một cách chủ quan vì yêu thích và sự lôi cuốn như tham gia một gameshow, tôi đoán mò (randomly guessing) đặt cược cho một số tác giả nổi tiếng thế giới.
Trong
số đó tôi quan tâm đến Anne Carson. Bà sinh năm 1950 là nhà thơ, nhà viết tiểu
luận, giáo sư Văn học cổ điển và dịch giả người Canada. Theo các nhà nghiên cứu
văn học: “Carson đã tạo nên một bước đột phá lớn, khơi dậy cả sự ghen tị và ngưỡng
mộ” (Carson has been cutting a large
swath, inciting both envy and admiration). Carson là "một triết gia về
nỗi thống khổ" (a philosopher of
heartbreak). Nhiều tác phẩm của bà dường như phi thể loại (unclassifiable), trong đó có sự kết hợp
giữa tiểu thuyết, thơ, tiểu luận – cổ điển và hiện đại, nó “được thiết kế lại
cho một đối tượng hoàn toàn mới, cuối cùng nó đã làm choáng váng các nhà thơ” (redesigned for an entirely new audience, it
finally stunned the poets). Những sáng tạo trong tác phẩm của bà cho thấy
bà là “một trong những người có khí chất thông minh kỳ lạ nhất đang hoạt động
trong nền văn học đương đại" (one of
the most idiosyncratic intelligences at work in contemporary literature). Anne Carson là ứng viên sáng cho giải Nobel
Văn học, dù chưa được xướng danh cho giải này nhưng bà vẫn là cây bút nổi tiếng
của Văn học đương đại thế giới.
Bà đã
nhận được nhiều danh hiệu và giải thưởng, bao gồm học bổng từ Quỹ Guggenheim,
Quỹ MacArthur và Viện Hàn lâm Hoa Kỳ tại Berlin. Bà cũng đã nhận được Giải thưởng
Văn học Lannan, Giải thưởng Pushcart, Giải thưởng Thơ Griffin…
***
Một số
câu trích, lấy từ các tác phẩm của bà:
1. “Con nhớ quá nhiều rồi”
- mẹ tôi gần đây đã nói với tôi như vậy, “Sao cứ giữ mãi những điều đó?” Và tôi
đã trả lời: “Con biết đặt nó ở đâu bây giờ?” (You remember too much, my mother said to me recently. Why hold onto
all that? And I said, Where can I put it down?)
2. “Tại
sao bi kịch lại tồn tại? Bởi vì bạn đầy giận dữ. Tại sao bạn đầy giận dữ? Bởi
vì bạn đầy đau buồn.” (Why does tragedy
exist? Because you are full of rage. Why are you full of rage? Because you are
full of grief.)
3. “Chạy như bay mà vẫn
chưa đến đích, tự thân nó đã là một niềm vui, một khoảnh khắc lơ lửng của hy vọng
sống.” (To be running breathlessly, but
not yet arrived, is itself delightful, a suspended moment of living hope.)
4.
“Anh có thể đến thăm em trong mơ không? Điều đó sẽ làm em vui lên. Thật tuyệt vời
khi được gặp bạn bè vào ban đêm, dù thời gian có ngắn ngủi đến đâu.” (Could you visit me in dreams? That would
cheer me. Sweet to see friends in the night, however short the time.)
5.
“Tính từ là gì? Danh từ đặt tên cho thế giới. Động từ kích hoạt tên gọi. Tính từ
đến từ một nơi khác. Từ tính từ (tiếng Hy Lạp: epitheton) tự nó là một tính từ
có nghĩa là 'đặt lên trên', 'thêm vào', 'thêm vào', 'xa lạ'. Tính từ có vẻ là
những sự bổ sung khá vô hại, nhưng hãy nhìn lại. Những cơ chế nhỏ bé được du nhập
này đảm nhiệm việc gắn kết mọi thứ trên thế giới vào vị trí cụ thể của nó.
Chúng là những chốt cửa của sự tồn tại.” (What
is an adjective? Nouns name the world. Verbs activate the names. Adjectives
come from somewhere else. The word adjective (epitheton in Greek) is itself an
adjective meaning 'placed on top', 'added', 'appended', 'foreign'. Adjectives
seem fairly innocent additions, but look again. These small imported mechanisms
are in charge of attaching everything in the world to its place in
particularity. They are the latches of being.)
6. “Kể
một câu chuyện về cách con người làm tổn thương lẫn nhau dễ hơn là kể một câu
chuyện về điều gì gắn kết họ lại với nhau.” (It
is easier to tell a story of how people wound one another than of what binds
them together.)
7.
“Thực tế là một âm thanh, bạn phải lắng nghe nó chứ không chỉ la hét.” (Reality is a sound, you have to tune in to
it not just keep yelling.)
8.
“Những lời ta đọc và những lời ta viết không bao giờ diễn tả chính xác những gì
ta muốn nói. Những người ta yêu không bao giờ đúng như ta mong muốn. Hai biểu
tượng này không bao giờ hoàn toàn ăn khớp với nhau. Eros nằm ở giữa.” (The words we read and words we write never
say exactly what we mean. The people we love are never just as we desire them.
The two symbola never perfectly match. Eros is in between.)
9.
“Khi ta khao khát em, một phần trong ta đã mất đi...” (When I desire you a part of me is gone...)
10. “Một người di chuyển
xuyên thời gian. Nó chẳng có ý nghĩa gì ngoài việc, giống như một cây lao, một
khi đã ném đi thì sẽ đến đích.”
11. “Thời gian không được
tạo thành từ bất cứ thứ gì. Nó là một khái niệm trừu tượng. Chỉ là một ý nghĩa
mà chúng ta áp đặt lên chuyển động.”
12. “Trích dẫn là gì?
Trích dẫn (cùng nguồn gốc với quota) là một vết cắt, một phần, một lát cam của
ai đó. Bạn mút miếng cam, vứt bỏ vỏ, rồi chuồn mất.” (What is a quote? A quote (cognate with quota) is a cut, a section, a
slice of someone's orange. You suck the slice, toss the rind, skate away.)
13.
“Đôi khi tôi mơ một câu và viết nó ra. Thường thì nó vô nghĩa, nhưng đôi khi nó
lại như chìa khóa mở ra một thế giới khác.” (Sometimes
I dream a sentence and write it down. It’s usually nonsense, but sometimes it
seems a key to another world.)
14.
“Đôi khi một hành trình tự nó trở nên cần thiết.” (Sometimes a journey makes itself necessary.)
15.
“Khoảng cách trông như thế nào?” là một câu hỏi trực tiếp đơn giản. Nó trải dài
từ một khoảng không vô định bên trong đến ranh giới của những gì có thể được
yêu.” (How does distance look?" is a
simple direct question. It extends from a spaceless within to the edge of what
can be loved.)
16.
“Không chạm vào nhau nhưng hòa quyện trong sự kinh ngạc như hai vết cắt song song
trên cùng một cơ thể.” (Not touching but
joined in astonishment as two cuts lie parallel in the same flesh.)
17.
“Khi tôi khao khát em một phần của tôi đã biến mất.” (When I desire you a part of me is gone.)
18.
“Em biến mất? Rồi quay trở lại. Tôi gọi đó là những khoảnh khắc của cái chết.” (You disappear? And then come back. Moments
of death I call them.)
19.
“Khát khao nhân đôi là tình yêu, và tình yêu nhân đôi là sự điên rồ. Sự điên rồ
nhân đôi là hôn nhân.” (Desire doubled is
love and love doubled is madness. Madness doubled is marriage.)
20.
“Không có con người nào không có một thế giới.” (There is no person without a world.)
21.
“Các triết gia nói rằng con người hình thành chính mình trong đối thoại.” (Philosophers say man forms himself in
dialogue.)
22. “Ngươi nghi ngờ Chúa
ư? Chính xác hơn, ta tin Chúa đã sáng suốt khi nghi ngờ ta. Rốt cuộc, sự chết
là gì ngoài sự nghi ngờ thần thánh lóe lên trong chúng ta? Trong khoảnh khắc,
Chúa trì hoãn sự đồng ý và bùm! chúng ta biến mất.” (You doubt God? Well more to the point I credit God with the good sense
to doubt me. What is mortality after all but divine doubt flashing over us? For
an instant God suspends assent and poof! we disappear.)
23. “Có lẽ điều khó khăn
nhất khi mất đi người yêu là nhìn năm tháng cứ lặp lại.” (Perhaps the hardest thing about losing a lover is to watch the year
repeat its days.)
24.
“Tôi nhấn mạnh sự khác biệt giữa dấu ngoặc vuông và không có dấu ngoặc vuông vì
nó sẽ ảnh hưởng đến trải nghiệm đọc của bạn, nếu bạn cho phép. Dấu ngoặc vuông
rất thú vị, ngụ ý một không gian tự do cho cuộc phiêu lưu tưởng tượng.” (I emphasize the distinction between
brackets and no brackets because it will affect your reading experience, if you
will allow it. Brackets are exciting, imply a free space of imaginal
adventure.)
25.
“...Tôi đang nói về cái ác. Nó nở hoa. Nó ăn. Nó cười toe toét.” (I am talking about evil. It blooms. It
eats. It grins.)
26.
“Một tâm trí suy nghĩ không bị nuốt chửng bởi những gì nó biết. Nó vươn ra để nắm
bắt một điều gì đó liên quan đến chính nó và kiến thức hiện tại của nó (và có
thể biết được ở một mức độ nào đó) nhưng cũng tách biệt khỏi chính nó và kiến
thức hiện tại của nó (không đồng nhất với những điều này). Trong bất kỳ hành
động suy nghĩ nào, tâm trí phải vượt qua khoảng không gian giữa cái đã biết và
cái chưa biết, kết nối cái này với cái kia nhưng vẫn giữ được sự khác biệt. Đó
là một không gian gợi tình.” (A thinking
mind is not swallowed up by what it comes to know. It reaches out to grasp
something related to itself and to its present knowledge (and so knowable in
some degree) but also separate from itself and from its present knowledge (not
identical with these). In any act of thinking, the mind must reach across this
space between known and unknown, linking one to the other but also keeping
visible to difference. It is an erotic space.)
27.
“Khi bạn đang yêu thì lúc nào cũng đã quá muộn - như các nhà thơ vẫn nói.” (When you are falling in love it is always
already too late - as the poets say.)
28.
“Tôi sẽ không bao giờ biết bạn nhìn thấy màu đỏ như thế nào và bạn cũng sẽ
không bao giờ biết tôi nhìn thấy nó như thế nào.” (I will never know how you see red and you will never know how I see it.)
29. “Mọi huyền thoại đều
là một mô hình được làm giàu, một mệnh đề hai mặt, cho phép người vận hành nó
nói một đằng và ám chỉ một nẻo, để sống một cuộc đời hai mặt. Do đó, quan niệm
được tìm thấy sớm trong tư tưởng cổ đại rằng tất cả các nhà thơ đều là kẻ nói dối.
Và từ những lời nói dối chân thực của thơ ca đã nảy sinh một câu hỏi: Điều gì
thực sự kết nối ngôn từ và sự vật?” (All
myth is an enriched pattern, a two-faced proposition, allowing its operator to
say one thing and mean another, to lead a double life. Hence the notion found
early in ancient thought that all poets are liars. And from the true lies of
poetry trickled out a question: What really connects words and things?)
30. “Nỗi đau buồn của bạn
cũng lớn lao như sự huy hoàng của bạn: một vị thần nào đó đang cân nhắc cái này
ngang bằng với cái kia.” (Your grief is
as great as your splendor was: some god is weighing the one out equal to the
other.)
31. “Tình yêu không khiến
tôi dịu dàng hay tử tế.” (Love does not
make me gentle or kind.)
32. “Lùng sục ý nghĩa của
một từ, lùng sục lịch sử của một con người, chẳng ích gì khi mong đợi một luồng
sáng. Ngôn từ của con người không có công tắc chính. Nhưng tất cả những vụ bắt
cóc nhỏ bé trong bóng tối. Và rồi mạng lưới sáng chói, to lớn, run rẩy, chán nản,
không hối hận, sủa inh ỏi trong tâm trí bạn khi bạn lật lại trang bạn đang cố gắng
dịch...” (Prowling the meanings of a
word, prowling the history of a person, no use expecting a flood of light.
Human words have no main switch. But all those little kidnaps in the dark. And
then the luminous, big, shivering, discandied, unrepentant, barking web of them
that hangs in your mind when you turn back to the page you were trying to
translate...)
33.
“Chúng ta là nô lệ của các vị thần. Dù là vị thần gì” (We are slaves to the gods. Whatever gods are.)
34.
“Một vết thương tự phát ra ánh sáng của riêng nó. Nếu tất cả đèn trong nhà đều
tắt bạn có thể băng bó vết thương này bằng thứ phát sáng từ nó.” (A wound gives off its own light surgeons
say. If all the lamps in the house were turned out you could dress this wound
by what shines from it.)
35.
“Tôi là một giọt vàng. Tôi là vật chất nóng chảy trở về từ lõi trái đất để nói
với bạn những điều sâu thẳm” (I am a drop
of gold he would say. I am molten matter returned from the core of earth to
tell you interior things).
36. “Bạn bè biến mất hoặc
họ bất lực. Đây chính là ý nghĩa của bất hạnh, một phép thử khắc nghiệt về tình
bạn. Tôi không muốn điều đó xảy ra với bất kỳ ai.” (Friends disappear or they are powerless. This is what misfortune means,
an acid test of friendship. I wouldn't wish it on anyone.)
37.
“Đó là giờ phút tuyết chuyển sang màu xanh, đèn đường bật sáng và một chú thỏ
có thể dừng lại trên hàng cây, bất động như một từ trong sách.” (It was the hour when snow goes blue and
streetlights come on and a hare may pause on the tree line as still as a word
in a book)
38.
“Dưới đáy đại dương là một lớp nước chưa bao giờ chuyển động…” (At the bottom of the ocean is a layer of
water that has never moved…)
39. “Con người đang yêu thật đáng sợ. Bạn thấy họ lao vào nhau đói khát như những con sói thời tiền sử, bạn thấy thứ gì đó đang đấu tranh sinh tồn giữa họ như một cái rễ hay một linh hồn và nó bùng cháy trong giây lát, rồi họ đập vỡ nó” (Humans in love are terrible. You see them come hungering at one another like prehistoric wolves, you see something struggling for life in between them like a root or a soul and it flares for a moment, then they smash it.)
Mộc Nhân biên dịch từ nhiều nguồn với các từ khoá: Anne Carson - Quotes - Nobel Prizes - Goodread...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét