Đặng Thân - Nhân Giải Nobel Văn học 2025 vừa được trao cho một tác giả người Hung nữa – László Krasznahorkai – Đặng Thân (1) tặng các quý bạn tham gia chương trình “biztalk văn chương – tư duy xa” bài viết này (2).
Bậc thầy của khải huyền Hungary
Đó là tên gọi mà bậc kỳ kiệt Susan Sontag (3) đặt cho chàng: “The Hungarian master of apocalypse” (bậc thầy về thảm họa/ hậu tận thế của Hungary). Giờ khắc tên chàng được xướng lên ở Stockholm không ai biết chàng đang ở đâu? Trieste (Ý), Berlin (Đức) hay Szentlászló (Hung)? Chỉ biết rằng chàng đang hội tụ đầy đủ những tiêu chí hạng nhất trên đời của một người đàn ông: “Tam Ánh” (tóc ánh bạc, ví ánh kim, chim ánh thép). Phụ nữ nào muốn chung hưởng vinh quang thì tìm chàng đi. Bởi tuy chàng có hai vợ nhưng đã bỏ luôn cả rồi. Có thế mới không bị quấy rầy khi ngồi viết những thứ nhảm nhí, nhả nhím, bí hiểm, biếm hỉ trong nhân luân hay thiên đạo. Ai vừa nói chàng già quá đấy? Dù chàng sinh năm Thìn đẹp rất (1952) nhưng bè lũ Nobel là không có tuổi. Bởi Nobel vật lý 1957 Dương Chấn Ninh khi 82 rồi vẫn có em Vong Phi 28 tuổi đòi lấy; chênh 54 niên chớ mấy. Hiện (2025) họ vẫn sống cùng nhau, và Dương Chấn Ninh đã 103 tuổi (sinh năm 1922).
Những
tộc người xuất phát từ Trung Á có chất bí hiểm, mà lại cực hữu dụng. Như người
Đột Quyết gây giống cho người Duy Ngô Nhĩ; Tatar và Bashkir ở Nga và Siberia;
Uzbekistan, Turkmen, Kazakhstan, Kyrgyz, và Azerbaijan; rồi Thổ Nhĩ Kỳ đã thành
lập Đế chế Seljuk rồi Đế chế Ottoman, và sau đó là Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, là dòng
hậu duệ mạnh mẽ nhất. Như người Hung Nô để lại các giống cơ bản Mông Cổ, Hán,
Nhu Thiên, Thổ Dục Hồn và Hung. Chả thế, Hungary có mỗi 9,6 triệu dân (gần bằng Tp HCM) mà ẵm 16 cái Nobel
rồi.
I - ÔI,
NOBEL!
Đã quá lâu rồi, gần 1/4 thế kỷ, Ủy ban Nobel mới trao được một cái Nobel Văn học nên hồn. Giữa hai Nobel của hai người Hung, 2002 của Imre Kertész (4) “nhân chứng lạnh lùng của phi lý” (existential witness of totalitarianism) và 2025 của László Krasznahorkai (5) “nhà tiên tri mộng loạn của tận thế” (visionary prophet of apocalypse) là cả đống các ông bà lãng xẹt. Cả một “vùng trũng Nobel” có một “cảm giác lãng nhách tập thể”:
Giai
đoạn 2003-14: Nobel đi tìm linh hồn (mà quên mất văn chương). Sau Kertész
(2002), có một loạt gương mặt rất “có đạo đức nhưng hơi bị hết hồn”. Thực ra là
Nobel mất hướng. Sau Kertész, Nobel rời bỏ ý niệm “thiên tài văn chương” để
chạy theo “đạo đức toàn cầu”. Họ trao giải cho người đại diện cho một lập
trường, không phải một giọng văn. Kết quả: 10 năm liền, Nobel như một giáo sư
mệt mỏi đi phát bằng danh dự cho những ai “đã chịu khổ đúng hướng”:
2003 –
J.M. Coetzee: lạnh lùng, vô cảm kiểu phòng thí nghiệm đạo đức.
2004 –
Elfriede Jelinek: cực đoan nữ quyền, trào ngược tinh thần.
2005 –
Harold Pinter: kịch thuyết chính trị hóa, gần như chống văn học.
2006 –
Orhan Pamuk: viết đẹp, nhưng chính trị nhiều hơn văn.
2007 –
Doris Lessing: triết lý mỏi mệt của thời hậu thuộc địa.
2008 –
Le Clézio: nhẹ như hơi sương; đọc xong tưởng là brochure du lịch.
2009 –
Herta Müller: viết OK, nhưng nặng mùi “hồi ký chế độ”.
2010 –
Vargas Llosa: ngoại lệ duy nhất, có lửa và cấu trúc.
2011 –
Tomas Tranströmer: thơ cực tinh tế, nhưng gần như tịch mịch.
2012 –
Mạc Ngôn: chảy mỡ ngôn ngữ nhưng rối loạn giọng điệu.
2013 –
Alice Munro: kể chuyện như dạy kỹ năng sống nhẹ nhàng.
2014 –
Patrick Modiano: ký ức mờ nhòe, thơm mùi bụi.
Giai
đoạn 2015-24: Nobel bước vào thời “văn học đạo đức học”, đề cao “chứng nhân”,
“bản sắc”, “ký ức”, “bị áp bức”, hơn là nghệ thuật ngôn ngữ. Từ Alexievich qua
Ernaux tới Glück, văn học trở thành “công cụ nhận lỗi”, không còn trò chơi sáng
tạo. Ngoại lệ hiếm hoi có Handke (ngang ngược), Ishiguro (lạnh trí), Fosse
(trầm thiền).
2015 –
Svetlana Alexievich: nhà báo, biên tập viên của “tiếng khóc tập thể”, một Nobel
cho người ghi âm nỗi đau.
2016 –
Bob Dylan: ca nhạc sỹ, văn học tạm nghỉ, Spottify lên ngôi.
2017 –
Kazuo Ishiguro: văn lạnh, nhưng nhẹ như sương mù London.
2018 –
(hoãn, do bê bối tình dục ở Viện Hàn lâm): cả thế giới văn học xả hơi, ai cũng
thốt lên: may quá!
2019 –
Peter Handke & Olga Tokarczuk: gây tranh cãi (Handke ủng hộ Serbia,
Tokarczuk là “kẻ phá hoại bản sắc Ba Lan”), Nobel cho một kẻ bị tẩy chay và một
kẻ gây chia rẽ; thế là Viện Hàn lâm đã… điên trở lại.
2020 –
Louise Glück: thơ “tối giản”, trầm, lạnh như đá.
2021 –
Abdulrazak Gurnah: gốc Zanzibar hậu thuộc địa, một Nobel “hiện thực phải đạo”
(politically correct) điển hình: nhân đạo, đúng hướng, nhưng nhạt nhòa.
2022 –
Annie Ernaux: viết như luận án, đọc như nhật ký; chân thật nhưng vô vị.
2023 –
Jon Fosse: kịch & tiểu thuyết tối giản, nhịp thở thần học, chữ như tuyết
lạnh.
2024 –
Han Kang: bi kịch được tiệt trùng; đẹp, sạch, buồn và… vô vị.
Đến khi
Krasznahorkai xuất hiện, thì văn học Đông Âu bỗng trở lại bằng cơn loạn ngôn,
không phải đạo đức; và người ta mới nhận ra: sau quá nhiều “ý nghĩa nhân đạo”
(cũng như “chính trị phải đạo”), thế giới khát điên rồ.
II -
KRASZNAHORKAI
Tất
nhiên Krasznahorkai kinh lắm. Những người Hung am hiểu về văn học đều ngưỡng mộ
ổng, họ bất bình là sao mãi tận bây giờ, sau Kertész 23 năm, ổng mới nhận được
giải Nobel! Ông được đánh giá cao hơn Kertész vì không bỏ nước ra đi, tác phẩm
mang tư tưởng gần với “đạo Trời” hơn là tư tưởng Do Thái của Kertész!
Có bốn
tác phẩm lớn tạo thành “trục tinh thần” của Krasznahorkai, thường được gọi là
“Tứ khúc Khải huyền” (Apocalyptic Quartet):
1.
Sátántangó (1985): sự sụp đổ của cộng đồng và niềm tin.
2. Az
ellenállás melankóliája (The Melancholy of Resistance | Nỗi sầu của kháng cự,
1989): hỗn loạn chính trị, khát vọng cứu rỗi, và sự mê hoặc của quyền lực.
3. Az
utolsó farkas (The Last Wolf, Con sói cuối cùng, 2009): suy tưởng hiện sinh về
tuyệt chủng và lương tri.
4.
Seiobo járt odalent (Seiobo There Below, Seiobo dưới trần, 2008): chiêm nghiệm
về cái đẹp thiêng liêng và thời gian bất tận.
Trong
đó, Sátántangó vẫn được xem là tác phẩm biểu tượng nhất, vì nó khởi nguồn toàn
bộ vũ trụ văn chương của Krasznahorkai, nơi con người, ngôn ngữ, và đức tin
cùng rơi vào vòng xoáy tận thế. Đó là tác phẩm quan trọng và nổi tiếng nhất của
László Krasznahorkai được giới phê bình quốc tế và chính ông coi là trục trung
tâm trong toàn bộ sự nghiệp của mình. Đây là tiểu thuyết đầu tay nhưng cũng là
tuyên ngôn nghệ thuật của ông, đặt nền cho toàn bộ phong cách: câu văn dài vô
tận, cấu trúc vòng lặp, giọng văn tận thế, và sự phân rã của ý thức con người
trong thế giới hậu ý nghĩa.
Tiểu thuyết của ông đậm chất thần thoại nhưng đời thường, dễ đọc. Chính ông phát biểu: “Cuộc sống của tôi chẳng có kế hoạch, tôi chẳng thích lên kế hoạch. Một ngày nào đó trong tuổi thơ, tôi đã sống theo cách mà tôi nghe thấy từ tiếng nói của những nhân vật chưa tồn tại và liên tục muốn bước vào cái thực tại mà con người chúng ta đang nhận thức. Tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc viết ra những giọng nói này. Tôi không đi đâu đó với ý định viết sách, mà để không nghĩ đến việc viết sách. Nhưng một trong số hàng trăm hay hàng ngàn nhân vật chưa tồn tại ấy có thể chạm đến tôi ở bất cứ nơi nào bằng sự hiện diện của họ, bằng một chuyển động, bằng một cử chỉ. Trong khoảnh khắc họ chạm mặt tôi, tôi nghe thấy những lời nói của họ, câu chuyện của họ, số phận của họ… bằng một sức mạnh khủng khiếp, họ giận dữ chỉ ra rằng, họ có một chỗ đứng nơi đây.” Có thể nói, đây là tư tưởng bao trùm lên những sáng tác của ông.
III -
SÁTÁNTANGÓ
1. Ở VN
& TRÊN TG:
Đã có
hai cuốn của Krasznahorkai được dịch ra tiếng Việt. Đó là War & War (Chiến
tranh & chiến tranh, 2017) và Sátántangó (Vũ điệu quỷ Satan, 2022). Có lẽ
độc giả Việt chưa mấy để ý đến ông, do cách viết rất khó: giọng văn âm u, một
câu kéo dài cả mấy trang… Nhưng, vấn đề lớn là dịch giả (nói chung & nói
riêng). Nghe nói dịch giả tiếng Hung cuốn này chỉ quen viết báo cáo và giải
trình.
Ngay
cái nhan đề Vũ điệu quỷ Satan là quá xa ý tác giả rồi (nghe như một tên phim
“kịch xà phòng”). Sátántangó rất rõ ràng là từ ghép của “Satan” và “tango”. Sao
lại coi thường Krasznahorkai khi ông đã dụng công dùng từ “tango”? “Satan” thì
ai cũng hiểu là quỷ, nên dịch “quỷ Satan” là thừa. Đây là điệu tango của quỷ,
nhưng cũng hàm ý về một điệu nhảy định mệnh. Nếu dịch thành “Điệu tango của
quỷ” sẽ chính xác hơn về nhịp, không khí và ẩn dụ. Bởi tango là điệu nhảy có
bước tiến, bước lùi, y hệt cấu trúc tiểu thuyết này (6 chương tiến, 6 chương
lùi). Nó cũng là điệu nhảy hai người, đầy mê hoặc, quyến rũ và hủy diệt, biểu
tượng của sự đồng lõa giữa người và quỷ, giữa kẻ bị dẫn dụ và kẻ thao túng. Vì
vậy, nhan đề “Điệu tango của quỷ” vừa đúng về ngữ pháp, chuẩn xác và trang
trọng, vừa chạm đúng vào trái tim biểu tượng của tác phẩm. Các cách dịch khác:
“Điệu tango Satan” (vừa huyền bí, vừa trừu tượng), “Tango Quỷ” (ngắn, ám ảnh,
hợp bìa sách hoặc phim).
Phải
nói ngay là cuốn sách đình đám này chưa chắc được mấy người mua đâu, nên các
nhà văn dấn thân chớ vội nghĩ đến tiền. Sách ra năm 1985, thời nhộm nhoạm ấy đủ
thứ lo, mấy cao thủ bỏ tiền mua sách. Cuốn sách chỉ trở nên đình đám khi được
đạo diễn Béla Tarr dựng thành phim năm 1994. Phim dài tới bảy tiếng rưỡi, dễ
mấy ai kiên nhẫn mà xem, ngoài các cán bộ như chị Ngô Phương Lan, chớ nhấp nhổm
như anh Trần Lực thì lấy đâu ra kiên nhẫn mà ngồi xem cả ngày không ăn trưa!
Nhưng!!
Phim
hay đến từng xăng ty mét vuông. Mở đầu là cảnh nông trang (XHCN) hoang nát và
một đàn bò ngơ ngáo, đạo diễn cho kéo dài miên man, đến suốt… 6 phút, mà chỉ có
cảnh động là hai anh bò lần lượt nhảy phóc lên đít hai chị bò, từng ấy đã đủ
làm người xem… liệt kháng ngay từ đầu. Tiếp đó, khi có nhân vật người xuất hiện
thì choán giữa khung hình là một chị ngồi zửa bướm trên cái chậu thau. Zất kỹ
càng. Zưng chắc chắn khán giả đã bị thôi miên, để yên cho đạo diễn dắt vào tiểu
thuyết trường thiên vĩ đại của Krasznahorkai.
Sau cú
phim quá hoành tráng ấy thiên hạ bắt đầu quan tâm tới Sátántangó. Ước chừng hai
vạn bản tiếng Anh đã được bán ra, toàn cầu. Suy ra, bản gốc tiếng Hung chắc bán
được hai-ba ngàn cuốn! Lãi lọ cồn.
2. NỘI
DUNG:
Vào
khoảng đầu những năm 80, đâu đó ở miền Đông Nam Hungary, vũ điệu độc đáo của
Sátántangó diễn ra trên những tàn tích sống động của một khu trang trại nông
nghiệp cũ. Irimiás đến thế giới khép kín và bất động này, cùng với Petrina, để
làm lóa mắt những người dân địa phương sống ở nông thôn này, những người đang
bám víu sinh tồn, với những hy vọng và ảo tưởng mới. Tiểu thuyết đầu tay này
của ông trở thành một tác phẩm kinh điển của văn học Hungary và thế giới hiện
đại. Sátántangó, chứa tải những kiến thức xã hội học, như một câu chuyện ngụ
ngôn muôn thuở về sự mong manh của đời người, về sự giải thoát và vướng víu, về
ân sủng và lòng thương xót của Thượng đế, về những thảm họa sắp xảy ra. Văn
phong cuốn hút, người đọc dễ “lên đồng”.
Truyện
được kể theo nhiều góc nhìn khác nhau, cấu trúc “tiến-lùi” giống vũ điệu tango.
Sách có 12 phần: 6 phần tiến, rồi 6 phần hồi lại (gồm các tựa chương tiến rồi
lùi). Dưới đây là diễn biến chính:
a) Khởi
đầu – tiếng chuông: Truyện mở đầu khi Futaki (một cư dân trong trang trại) nghe
thấy tiếng chuông vào một buổi sáng cuối thu, báo hiệu một điều bí ẩn sắp tới.
Tiếng chuông này cũng xuất hiện ở cuối truyện, tạo tính vòng lặp. Đồng thời,
người ta biết rằng Irimias, người đã được cho là chết, đang trở về trang trại
cùng người cộng sự Petrina.
b)
Irimias & Petrina – sự phục sinh/ “cứu rỗi”: Khi Irimias và Petrina xuất
hiện, những người dân trong trang trại đón nhận họ như những cứu tinh, tin rằng
họ sẽ đem lại thay đổi, cứu vãn tình hình. Nhưng thực ra, Irimias là nhân viên
tình báo trá hình (spy, nội gián) làm việc cho nhà nước, sử dụng dân làng như
công cụ để mở rộng mạng lưới giám sát. Ông ta lôi kéo người dân rời bỏ trang
trại cũ, đến một trang trại mới, rồi từ đó giải tán họ, phân tán họ để điều
khiển và giám sát.
c) Sự
tan vỡ của ảo tưởng & số phận của nhân dân: Những người dân từng trao niềm
tin cho Irimias dần nhận ra sự sai lệch, nhưng họ đã mất chỗ dựa. Có cái chết,
có sự tan vỡ, ví dụ như cái chết của cô bé Esti, một nhân vật trẻ tuổi mang
nhiều ẩn ý về niềm tin, hy vọng, và khát khao thoát khỏi thực tại. Trong khung
truyện này, bác sĩ trong trang trại (người gần như quan sát hành động của cộng
đồng) cố gắng ghi lại, can thiệp bằng cách ghi chép, nhưng cuối cùng nhận ra
rằng việc “ghi lại”, hay viết, có thể là cách duy nhất để phản kháng lại sự tàn
phá, dù thật nhỏ nhoi.
d) Kết
thúc vòng lặp: Kết thúc truyện quay trở lại tiếng chuông đầu truyện, vòng tuần
hoàn thời gian, vòng vũ điệu giữa hy vọng và thất vọng, giữa đen tối và ánh
sáng. Truyện không kết thúc bằng một giải pháp rõ ràng, mà để lại nhiều khoảng
trống suy ngẫm, về ý nghĩa, về sức mạnh, về cái thiện và cái ác, và về số phận
con người dưới áp lực quyền lực.
3. CHỦ
ĐỀ & Ý NGHĨA:
a) Sự
luân hồi/ vòng quay tuyệt vọng: Cấu trúc tiến-lùi, vòng lặp tiếng chuông, sự
khởi đầu và kết thúc đồng thời là điểm mở, tất cả gợi lên cảm giác rằng con
người bị mắc kẹt trong chu kỳ căng thẳng, hy vọng và thất vọng.
b) Niềm
tin, cứu rỗi giả tạo, và quyền lực ngầm: Irimias tượng trưng cho kẻ cứu tinh
giả, kẻ đứng giữa quyền lực nhà nước và người dân, biến niềm tin của dân thành
công cụ thao túng. Những người dân trong sự tuyệt vọng dễ bị dẫn dắt bởi ảo
tưởng cứu rỗi, và khi nhận ra thực tế nghiệt ngã, họ không còn chỗ dựa.
c) Thời
gian, sự hủy hoại, và sự đổ nát: Mưa không ngớt, những ngôi nhà đổ nát, cảnh
hoang tàn; tất cả làm nổi bật sự suy tàn của môi trường sống, nhưng cũng là
hình ảnh cho sự mục ruỗng tinh thần của con người.
d) Sự
quan sát & viết như phản kháng: Bác sỹ (người kể chuyện) cố ghi chép, ghi
lại cái hỗn loạn, cái đau như cách làm sống sót bản thân và phản kháng câm lặng
trước quyền lực áp bức.
e) Cái
thiện và cái ác không rõ ràng: Truyện không vẽ ra “Satan” theo hình tượng rõ
ràng, mà nhiều lúc quyền lực ác quỷ xuất hiện qua các mối quan hệ, thông qua
niềm tin sai lệch, qua hệ thống thao túng. Có lúc Irimias giống nhân vật cứu
rỗi, có lúc giống ác quỷ. Nhân vật “tốt” và “xấu” bị mờ đi; ranh giới giữa
chúng trở nên mơ hồ.
Sátántangó nổi bật bởi kết cấu vòng lặp như một bản tango, tiến sáu bước rồi lùi sáu bước, phản chiếu chu kỳ tuyệt vọng của con người. Văn phong đặc trưng với các câu dài miên man, tràn ý thức, mô tả thế giới hoang tàn bằng nhịp điệu mê loạn. Tác phẩm hòa trộn hiện thực tăm tối và huyền ảo triết học, nơi mưa, bùn, rượu, và sự mục ruỗng của một cộng đồng trở thành ẩn dụ cho sự sụp đổ tinh thần sau chủ nghĩa toàn trị. Nhân vật Irimias “cứu tinh giả” hiện thân cho quyền lực thao túng niềm tin, biến tôn giáo và lý tưởng thành bẫy. Giữa sự tan rã ấy, bác sỹ ghi chép như một hành vi phản kháng bằng ngôn từ. Tác phẩm tạo nên một vũ điệu giữa đức tin, ảo vọng và hư vô, nơi địa ngục mang hình dáng của đời sống thường nhật.
-----------
Chú thích:
(1). Đặng Thân/ Wikipedia
(2). Nguồn: facebook/ Đặng Thân
(3). Susan Sontag/Wikipedia
(4). Imre Kertész/Wikipedia
(5). László Krasznahorkai/wikipedia
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét