(Trích phần cuối Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh)
Tôi năm nay 77 tuổi.
Tuổi âm lịch 78 (Canh Ngọ)
Nhìn lại, thấy cuộc đời
mình cũng có thể xem là may mắn. Đất nước đánh nhau 30 năm, hàng triệu người
chết. Mình không chết. Thế là một cái may.
Xã hội mình, pháp luật lỏng lẻo. Bao nhiêu người bị bắt oan. Mình không bị bắt. Thế là hai cái may.
Nhớ lại hôm có mấy nhà
văn Thuỵ Điển sang Việt Nam, đưa tin thất thiệt tôi bị bắt. Tôi được Hội nhà
văn mời ra gặp mấy ông Thuỵ Điển. Trên đường về, tôi tạt qua Nhà xuất bản Giáo dục, thuật chuyện này
với Nguyễn Khắc Phi, lúc ấy làm tổng biên tập. Phi nói gọn lỏn: “Anh bị bắt là
đáng lắm!”. Như vậy, chuyện tôi bị bắt là một khả năng thật sự, nghĩa là rất có
thể xảy ra. Hồi ở Đồng Xa, vào năm 1987, tôi từng “được” một anh A25 đến thăm
hỏi. Họ cũng luôn đến lục lọi hồ sơ lý lịch của tôi ở phòng tổ chức Đại học Sư
phạm Hà Nội. Các vị ở phòng tổ chức cán bộ cho biết như vậy. Nhưng rồi cũng
chẳng sao. Vẫn được đủ thứ: giáo sư, nhà giáo nhân dân, giải thưởng Nhà nước…
Đúng là số tôi có quý nhân phù trợ.
Có lẽ tôi có gien của
ông bố: ham chơi, vui đâu chầu đấy, thích hưởng lạc. Từ 14, 15 tuổi đã tập hút
thuốc lá. Rồi thích đọc văn Nguyễn Tuân viết về những thú hưởng lạc. Tôi chủ
trương, trời cho hưởng cái gì, không bao giờ từ chối, không việc gì phải từ
chối. Nhưng không có thì thôi. Tôi có thể sống kham khổ mà vẫn vui. Và thực tế,
tôi đã sống như vậy. Thuở nhỏ, bố mẹ và các anh chị cho tôi là một thằng bé rất
dễ tính về chuyện ăn uống. Tôi có thể ăn cơm nguội với muối trắng mà vẫn thấy
ngon. Có một lần, nhà có quả bưởi sần, múi khô, mọi người chê ăn như nhai rơm.
Thế mà tôi vẫn chén hết. Lớn lên, trong chiến tranh, tôi từng phải ăn cháo sắn,
thậm chí ăn củ chuối trừ bữa. Tôi rất ghét những tay cay cú, cố đấm ăn xôi, của
trời muốn vơ vét hết…
Đánh giá con người, tôi
có hai tiêu chuẩn. Một là tiêu chuẩn đạo đức. Hai là tiêu chuẩn thẩm mỹ. Có
những loại người tôi rất ghét, tuy không ác, thậm chí còn tỏ ra tử tế đối với
tôi nữa. Ghét vì tầm thường, nhạt nhẽo, vô duyên, nhàm chán, phi thẩm mỹ. Tất
nhiên loại người này không thể hoàn toàn lương thiện được. Song đó không phải
nét nổi bật của họ. Tôi rất lấy làm thú vị khi tình cờ tìm được cách diễn tả
loại người này, nhân đọc Thần khúc của Dante. Thi hào được
Virgile dẫn xuống địa ngục. Ông thấy có một hạng người bị giam trong một khu
riêng. Từ xa đã nghe chúng khóc rống lên thảm thiết.
Họ là ai mà cực độ đau
thương?
Những linh hồn nhàm
chán,
Sống không hèn nhưng
chẳng dám khen chê, không phản Chúa nhưng cũng chẳng trung với Chúa, Chỉ vì
mình, chỉ vì chúng mà thôi!
Thiên đình tống chúng đi
để Thượng giới khỏi giảm
phần tươi đẹp
Địa ngục thẳm sâu
cũng chẳng thèm nhận
chúng
Vì sợ đám tội đồ lại có
cớ để vênh vang…
(Khúc III Thần
khúc – Địa ngục)
Có người đề nghị tôi thử
chỉ cho xem một người nào đó trong khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội, đúng với
tiêu chuẩn “phi mỹ học” nói trên.
Thực ra đưa tiêu chuẩn
này, tôi, khởi sự, đâu phải xuất phát từ lý thuyết. Tôi bao giờ cũng từ thực tế
cuộc sống mà khái quát lên, sau đó mới tìm trong sách vở cách diễn đạt phù hợp.
Cho nên tôi có thể chỉ ra ngay mấy mẫu người người tiêu biểu trong thực tế. Đó
là NTH và BVB.(có lẽ Nguyễn Thanh Hùng và Bùi Văn Ba/ Phương Lựu- Ngọc chú
thích). Trớ trêu thay, họ lại là cán bộ khoa Văn, nên suốt đời nghiên cứu và
giảng dạy văn học, nghĩa là luôn tiếp xúc với cái đẹp và bàn về cái đẹp mà
chính họ là kẻ phản lại. Nhưng thôi, bọn người này chỉ nghĩ đến đã đủ chán đời
lắm rồi, chả nên quan tâm làm gì! Còn vô lý thì trên đời này thiếu gì chuyện vô
lý!
Ngoài ra có một loại
người, tôi cũng không ưa. Cũng là một dạng “phi mỹ học”, tuy không đáng ghét
lắm. Tôi gọi là những người có “bộ mặt thoả mãn”, lúc nào cũng tươi rói và sáng
bóng lên, thể hiện sự thoả mãn hoàn toàn với bản thân mình. Bộ mặt như muốn nói
với mọi người: tôi là người tài đức vẹn toàn, không có gì phải phấn đấu thêm
nữa. Tôi chỉ muốn có dịp dạy dỗ mọi người về những điều hay lẽ phải. Đương
nhiên là tôi phải được mọi người kính trọng. Ai không kính trọng tôi thì hoặc
là kẻ hỗn láo, hoặc là quá ngu xuẩn. Bộ mặt như thế ở đứa trẻ con thì rất hồn
nhiên, đáng yêu. Nhưng ở người lớn thì thật khôi hài. Tôi có đọc một cuốn sách
về tâm lý học, sách này nói về một thứ bệnh gọi là autosuffisance. Có lẽ chính
là bệnh của loại người này chăng? Loại người này không bao giờ tự vấn xem,
trong biển học mông mênh, đâu là giới hạn của mình, đâu là chỗ ngu dốt của
mình. Không được người ta coi trọng, loại người này rất dễ nổi nóng. Lúc đó anh
ta thường tìm ra những cái chẳng đâu vào đâu của mình rồi đề lên như là chỗ ưu
việt, hơn đời: này ngày xưa tôi học giỏi nhất lớp nhé, có lúc đã được làm
trưởng lớp nhé! Thi tốt nghiệp đại học, tôi đỗ đầu nhé! Lúc tôi bắt đầu dạy đại
học và nghiên cứu thì anh còn ngồi ghế sinh viên nhé!… Nhìn loại người này, lúc
nổi nóng, thấy không hơn gì một đứa con nít.
Ở khoa Văn Đại học Sư
phạm Hà Nội có ai như thế không? Tất nhiên là có, vì chính từ họ mà tôi khái
quát ra loại người này. Nhưng thôi nói ra làm gì. Loại người này, ngoài cái tật
nói trên, bụng dạ cũng không đến nỗi xấu. Chỉ cần được phỉnh nịnh, được tâng
bốc là lập tức có thể làm nhiều điều tốt cho bạn.
Tôi cho rằng, con người
ta dù tài giỏi đến đâu cũng phải hiểu cái giá của mình thế nào trong con mắt
của người đời. Đừng có chủ quan, tự thị. Những giá trị vật chất, dù ở đâu, với
ai, cũng không thay đổi bao nhiêu. Nhưng những giá trị tinh thần thì khác, giá
trị, thân phận anh trí thức thì khác. Ở chỗ này, được coi là vàng bạc, là kim
cương, thậm chí vô giá. Nhưng ở chỗ khác, chỉ đáng vất đi. Trần Đức Thảo, không
ít người coi là một đại trí thức, một triết gia cỡ quốc tế. Nhưng ở Việt Nam,
thời Nhân văn – Giai phẩm, các ông lãnh đạo chỉ coi như một thằng chăn bò (ở
nông trường Ba Vì).
Đối với đời sống thông
thường cũng thế. Quan hệ với giới này, người này, anh có thể rất được quý
trọng. Nhưng quan hệ với giới khác, người khác, anh cũng chẳng là gì hết, thậm
chí bị khinh bỉ. Tôi cho đó là chuyện thường. Mà khinh hay trọng cũng đều
có lý của nó cả. Cho nên bị ai khinh bỉ, chẳng nên tức tối, buồn khổ làm gì.
Còn được ai quý trọng thì phải coi là một sự may mắn, một ân huệ đời đã ban tặng
cho mình.
Và khinh trọng thì cái
giá trị thực của mình vẫn thế thôi.
Phương châm sống của tôi
là phải biết quý trọng cái tài, cái đẹp, lòng tốt. Người tài, người đẹp, người
tử tế là những của quý hiếm trên đời. Không biết quý trọng ba loại người đó là
thiếu văn hoá, là thô bỉ. Viết nghiên cứu, dựng chân dung văn học, tôi chỉ viết
về người tài, người tốt, và chỉ coi là nhà văn thật sự những cây bút có tư
tưởng, có cá tính và phong cách riêng. Đó mới là những người có thực tài. Mà
trong lĩnh vực văn chương, người tài là người tạo ra cái đẹp. (Tôi gọi người
tài là nhân tài, người đẹp là thiên tài – vì đó là sự sáng tạo của Tạo hoá, là
tài của Tạo hoá).
Nhiều người nhận xét,
tôi tuy tuổi đã cao, nhưng tính vẫn trẻ, văn cũng trẻ. Chu Văn Sơn gọi tôi là
Cụ Mết. Đỗ Lai Thuý và nhiều người khác không tán thành. Quả là tôi không thích
giao du với cánh già. Chỉ thích chơi với đám trẻ. Tôi rất ghét thói gia trưởng,
tính hách dịch, đầu óc bảo thủ. Đó cũng thường là tính cách của bọn già. Rất
may là tôi làm nghề dạy học, luôn luôn được tiếp xúc với tuổi trẻ. Cho nên tôi
rất yêu nghề dạy học.
Thực ra có hai việc, hay
gọi là hai nghề, mà tôi rất thích: dạy học và nghiên cứu, phê bình văn học. Hai
nghề không tách rời nhau và có chỗ thống nhất: cùng được phát biểu những tìm
tòi, suy nghĩ riêng của mình. Lên lớp được nói những điều tâm đắc với thế hệ
trẻ, sướng lắm! Viết xong một bài văn vừa ý, ngồi đọc lại, sửa câu này, chữ
khác cho thật hoàn chỉnh, cũng rất sướng..
Cả hai công việc trên
tôi đều đạt được một số thành tựu. Điều tôi cảm thấy sướng nhất là được khá
đông giới sáng tác yêu mến và rất nhiều học trò quý trọng.
Nhưng cả hai công việc
trên đều có vinh, có nhục, có sướng, có khổ. Suy nghĩ về một vấn đề gì đó, lắm
lúc thấy bí, bất lực, cảm thấy tài năng đã bỏ mình mà đi rồi. Buồn vô cùng! Dạy
học cũng vậy. Không nghĩ ra cái gì mới mẻ, hay ho để nói với học sinh, cũng
buồn vô cùng!
Nhưng buồn nhất, thậm
chí cảm thấy chán đời, chán mình, là có những lúc bỗng nhiên nhìn lại công việc
của mình, thấy vô nghĩa quá! Văn chương đúng là chuyện vớ vẩn. Tản Đà gọi thứ
văn hay nhất, thứ văn đích thực là văn của mình là “văn chơi”. Thảo nào các bậc
thánh hiền ngày xưa đều cho rằng “lập thân tối hạ thị văn chương”.
Vậy mà không hiểu sao
các nhà lãnh đạo cộng sản cứ ra sức bơm to vai trò của thứ trò chơi này khiến
nhiều kẻ trong đám cầm bút tỏ ra rất vênh vang, vênh vang một cách vô lối hết
sức. Trong lĩnh vực này, nói như Giả Bình Ao, “Thiên tài và thằng hề (…) dường
như không thể phân biệt rõ”. Có lẽ Nguyễn Khải nói đúng: các ông cộng sản quan
trọng hoá văn chương vì các ông ấy chủ yếu làm cách mạng bằng tuyên truyền. Mặt
khác lại rất sợ sự thật. Văn chương hay đụng đến sự thật. Cho nên, các ông ấy
quản lý rất chặt mấy thằng viết văn, tuy bọn này có làm được trò trống gì đâu
và chúa là hèn nhát.
Tập hồi ký của tôi,
trong phần tư liệu riêng, không thấy có mặt một cán bộ giảng dạy đại học
nào trừ Hoàng Ngọc Hiến. Có người hỏi tôi, vì sao vậy? Đây là loại người
cậu tiếp xúc hàng ngày, am hiểu nhiều nhất. Trong đó cũng có nhiều tay hấp dẫn
đấy chứ! Đúng như thế thật. Nhưng tôi không nghiên cứu họ, không quan sát, ghi
chép gì về họ.
Duy có hai người tôi rất
quý trọng. Hai người đồng tuế (canh ngọ). Cũng tuổi già mà tính vẫn trẻ. Cả hai
đều giống nhau ở chỗ, tuy chuyên môn rất giỏi – một người chuyên về lý luận,
gần đây rất say triết học cổ phương Đông (Hoàng Ngọc Hiến), một người chuyên về
văn học trung đại Việt Nam (Phạm Luận) – nhưng chẳng được phong bất cứ một chức
vụ khoa học nào. Sự có mặt của hai ông bạn này trên đời khiến tôi rất yên tâm.
Nghĩa là không cảm thấy cô đơn, tuy chúng tôi ít khi gặp nhau. Mà có gặp thì
cũng không trao đổi tâm sự gì. Chúng tôi đều không thích tâm sự. Đúng như Xuân
Diệu nói: “Chúng mình hiểu nhau mà không cần phải nói ra”.
Hoàng Ngọc Hiến, tôi đã
viết ở trên rồi. Còn Phạm Luận, tôi thấy chỉ cần nói một câu: đấy là một đấng
trượng phu quân tử của thời hiện đại, một cốt cách đường hoàng, một phong thái
thung dung, thật sự coi thường danh lợi: Bạc tiền gió thoảng thơ đầy túi, Danh
lợi bèo trôi, rượu nặng nai (Tản Đà)
Quận Phú Nhuận, TP Hồ
Chí Minh 4.7.2007
Đọc đầy đủ tại thẻ Nguyễn Đăng Mạnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét