Bài tham luận trong Hội thảo "30 năm VH-NT Quảng Nam" của nhà nghiên cứu Phùng Tấn Đông
VỀ CÁC TÁC GIẢ NGHIÊN CỨU, PHÊ BÌNH VĂN HỌC NGHỆ THUẬT QUẢNG NAM GẦN 30 NĂM QUA…
1/Đặt vấn đề
Sự hình thành nền lý luận phê bình hiện đại ở nước ta không tách rời sự
phát triển của một nền văn học nghệ thuật hiện đại. Sau năm 1975-nền văn học
nghệ thuật thiên về lý luận, phê bình Mác-xít, đề cao phương pháp sáng tác “hiện
thực xã hội chủ nghĩa”, ít quan tâm đến hình thức nghệ thuật. Nội dung hiện thực
của tác phẩm và phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa là đề tài của rất nhiều
cuốn sách phê bình và hàng trăm bài viết trên sách, báo tạp chí văn học nghệ
thuật…
Ở tỉnh Quảng Nam, từ sau ngày tách tỉnh QN-ĐN từ năm 1997-trên tạp chí Đất
Quảng bộ mới đã kế thừa lực lượng viết lý luận, phê bình của QN-ĐN cũ - chủ yếu
những tác giả tiếp cận văn học theo lối tiểu sử học, tiếp cận văn học theo lối ấn
tượng chủ quan, tiếp cận phương pháp nghệ thuật, lịch sử văn học theo quan điểm
Mác-xít…và không ngừng phát huy tính hội nhập với các trào lưu tiếp cận tác phẩm
văn học nghệ thuật trong tình hình mới. Ngoài các tác giả Trung ương và các tỉnh
bạn, thông qua tạp chí văn nghệ, báo địa phương, giai đoạn 1977-1997 có thể kể
đến các tác giả viết lý luận, phê bình địa phương như: Huỳnh Lý, Hoàng Châu Ký, Nguyễn Văn Xuân, Vũ Hạnh,
Trương Đình Quang, Hồ Hoàng Thanh, Mai Quốc Liên, Huỳnh Văn Hoa, Bùi Văn Tiếng,
Phạm Phú Phong, Phương Vân, Nguyễn Minh Hùng, Phùng Tấn Đông…, các nhà văn, nhạc
sĩ, hoạ sĩ tham gia viết phê bình văn học-nghệ thuật như Phan Tứ, Đông Trình,
Thanh Quế, Thanh Thảo,Trương Đình Quang, Trần Hồng (âm nhạc), Trần Phương Kỳ,
Trần Trung Sáng (mỹ thuật), Văn Thu Bích, Võ Văn Hoè, Phạm Hữu Đăng Đạt (Văn
hoá dân gian)…
Sau mười năm đổi mới kinh tế-xã hội
(1986-1996) văn học-nghệ thuật Đất Quảng sang năm 1997 (tách tỉnh) đã thực
sự khởi sắc, đa dạng vì mảng lý luận, phê bình văn học nghệ thuật được đặc biệt
coi trọng. Đầu năm 1986, Hội Nhà Văn Việt Nam lần đầu tiên đã trao tặng giải
thưởng cho các tác phẩm lý luận, phê bình và khảo cứu văn học.
Gần 30 năm qua, từ địa vị “thống soái” phương pháp sáng tác hiện thực xã
hội chủ nghĩa dần được xem như một phương pháp sáng tác “bình đẳng” như các
phương pháp khác, được xem như một “hệ thống mở” tức là dung nạp nhiều nguyên tắc
thể hiện nghệ thuật của các trường phái nghệ thuật khác nhau. Các tác phẩm tác
động đến đường lối “đổi mới” sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu.
Phạm Thị Hoài, Lê Lựu, Ma Văn Kháng… cũng tác động lớn đến lĩnh vực lý luận,
phê bình và nói như nhà nghiên cứu Trịnh Bá Đĩnh - đây “mở ra một trào lưu “phản
tư” của văn học nghệ thuật” (1). Nhiều vấn đề được đặt định trở lại như mối
quan hệ giữa văn học và hiện thực. Văn học không chỉ phản ánh những sự kiện, hoạt
động bên ngoài của nhân vật mà “lịch sử văn học là lịch sử tâm hồn nhân loại”
(Lê Ngọc Trà), quan hệ giữa văn học nghệ thuật và chính trị, vấn đề con người
trong văn học…cũng trở thành vấn đề, đề
tài cần được minh định lại.
Văn học nghệ thuật thời kỳ này thuộc vào giai đoạn hội nhập, nổi bật nhất
là xu hướng tiếp cận văn học từ thi pháp học (việc dịch và xuất bản hai cuốn
sách của M.Bakhtin: Lý luận về thi pháp
tiểu thuyết (1992); Những vấn đề thi
pháp Đôxtôiepxki (1993), xu hướng ngôn ngữ học bao gồm nhiều trường phái
như Cấu trúc luận, Ký hiệu học, Tự sự học…, xu hướng tâm lý học (phân tâm học,
tâm lý học nghệ thuật… của S. Freud, Vưgovki, K.G.Jung (biểu tượng, cổ mẫu…), đặc
biệt xu hướng phê bình sự đọc bao gồm Hiện tượng học, Thông diễn học (R.Ingargen,
M.Heiddegger, J.Derrida…), các lý thuyết hậu hiện đại trong tất cả các loại
hình như văn học, mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu, vũ đạo…
2/Thực trạng các tác giả phê bình văn học nghệ
thuật đất Quảng hôm nay
Từ 1997 đến nay, phê bình văn học nghệ thuật Quảng Nam thực sự bước vào
giai đoạn “phản tư và hội nhập”. Mảng phê bình văn học có hàng trăm bài viết
trên tạp chí Đất Quảng hàng chục cuốn sách chuyên về phê bình tác giả, tác phẩm.
Xu hướng chủ yếu của các bài viết là xu hướng thẩm định tác phẩm dựa trên văn bản
tác phẩm và tiếp cận tác phẩm từ thi pháp học, ngôn ngữ học, mỹ học tiếp nhận. Nổi
trội nhất là xu hướng khám phá những khía cạnh mới mẻ, về tính sáng tạo về cái
hay, cái đẹp của nghệ thuật ngôn từ nhất là các tác phẩm văn học cổ điển (văn học
trong nước và nước ngoài), văn học trung đại, cận đại, hiện đại Việt Nam.
Đội ngũ các tác giả địa phương có thể kể đến những cây bút gắn với phê
bình văn học, mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu như Huỳnh Thu Hậu, Nguyễn Tấn Ái,
Nguyễn Thị Bích Hiền, Nguyễn Chiến, Phùng Tấn Đông, Lê Đức Thịnh (Mộc Nhân), Huỳnh
Minh Tâm, Đặng Trương Khánh Đức (Ngọc Kết), Phan Chín, Mạc Ly…và đông đảo các cộng
tác viên trong cả nước. Có thể nói gần 30 năm qua trên lĩnh vực nghiên cứu văn
hoá nhất là văn hoá dân gian đã hình thành một lực lượng nghiên cứu trẻ và thực
sự năng động như các tác giả Nguyễn Tri Hùng, Tôn Thất Hướng, Hồ Xuân Tịnh,
Nguyễn Chí Trung, Trần Văn An, Phùng Tấn Đông, Võ Văn Hoàng, Phạm Phước Tịnh,
Võ Hồng Việt, Quảng Văn Quý, Nguyễn Hoài Quảng, Trần Thị Lệ Xuân…
Các tác phẩm phê bình đã có đóng góp rất lớn, thiết thực cho việc tiếp
nhận văn học, nghệ thuật nhất là chuyên mục “văn học trong nhà trường”. Chuyên
mục này đã trỏ thành diễn đàn của các thầy cô giáo - khai mở thêm nhiều chiều
kích mỹ học tác phẩm trong dòng chảy đương đại - thời kỳ hội nhập và phát triển
với thế giới. Tuy nhiên, mảng văn học đương đại của địa phương rất ít được bàn
thảo, giới thiệu một cách bài bản thấu đáo, thường chỉ dừng ở mức độ “điểm
sách”, bởi - hoặc là các cây bút phê bình chưa để mắt tới vì chất lượng tác phẩm,
hoặc do ngại “gây sự” mất lòng tác giả. Một trường hợp có thể đơn cử như tác giả
Nguyễn Tam Mỹ - một trong những tác giả được “xếp” vào những người viết tiểu
thuyết tiêu biểu về đề tài chiến tranh biên giới Tây Nam (2) - hầu như không được
các tác giả phê bình địa phương “nhận diện” một cách thấu đáo, công bằng
Riêng các lĩnh vực âm nhạc, mỹ thuật ,sân khấu… do một thời gian dài, việc
đào tạo sinh viên ngành lý luận phê bình quá khó khăn vì thế đây cũng là “khủng
hoảng” chung của phê bình nghệ thuật trong cả nước, không riêng một địa phương
nào. Việc các tác giả các chuyên ngành kể trên thi thoảng viết bài “phê bình”
nhau cũng là điều dễ “thông cảm”. Trong tương lai, đội ngũ phê bình văn học nghệ
thuật địa phương hy vọng sẽ được phát triển theo hướng bền vững, chuyên nghiệp
thông qua việc các tác giả được đào tạo/ tự đào tạo sao cho thích ứng với thời
kỳ công nghiệp số, đặc biệt là xu hướng tương liên thẩm mỹ/quan hệ thẩm mỹ (relational
aesthetícs) giữa người đọc/xem và tác phẩm…
Phùng Tấn Đông
-----------
Chú thích:
(1). Trịnh Bá Đĩnh-Lịch sử lý luận phê bình văn học Việt Nam-từ khởi đầu
đến thế kỷ XX-NXB TP HCM 2021 Tr.233
(2). Phạm Khánh Duy-Lật những mảnh ghép văn chương-NXB Hà Nội 2023 tr.171-190
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét