Thu Hương
Người phụ nữ trong văn
học dân gian qua hình ảnh cái cò và giải yếm đào là một hình ảnh
tuyệt vời và lãng mạn. Hình ảnh một con cò bé nhỏ giữa trời nước mênh mông đang
tuổi xuân thì còn bức tranh nào đẹp hơn về màu sắc, có chiều sâu suy
tưởng. Phải chăng đó là viễn ảnh một cuộc đời vất vả, gian nan, cô
đơn? Định mệnh người phụ nữ Việt Nam
trong cuộc đời qua biểu tượng cái cò đã đi vào văn học Việt Nam .
Cái cò mò tôm, bắt cá, dò
dẫm bước từng bước trên ruộng nước bao la của đồng quê Việt Nam , một hình
ảnh quen thuộc gắn chặt vào đời sống thôn dã. Sự cần cù, nhẫn nại,
kiên nhẫn, hy sinh tìm mồi nuôi con của cò mẹ không quản cái giá lạnh
mùa đông, từ sớm mai cho đến hòang hôn, giữa cô đơn tĩnh lặng. Cò mẹ ngửng
đầu rồi lại cúi xuống, rồi lại dò dẫm bước những bước nhỏ nhoi giữa không gian
cô đơn, đặc quánh đến cùng cực. Cò mẹ cô đơn giữa đồng không
mông quạnh ấy không ngoài mục đích mang mồi về cho con thơ dại. Người phụ
nữ Việt theo dòng lich sử chuân chuyên, vất vả không chỉ với con mà còn với
chồng, với gia đình nhà chồng.
Nuôi chồng nuôi con đã
là một việc làm không tưởng. Người phụ nữ còn quảy gánh sơn hà trong quá
trình tồn tại của Việt Nam, không chỉ từ ngàn xưa, không chỉ một thời Nho Phong
cực thịnh mà còn tiếp nối cho tới dòng lich sử rất gần trong thời điểm từ chiến
tranh chống Pháp, chống Cộng Sản. Người chồng, người cha không có mặt trong
gia đình vì còn đang sống chết giữa tuyến đầu, trong các mặt trận xa gần, tranh
đấu độc lập cho toàn dân Việt Nam, tranh đấu quyền sống tự do nhân bản cho
người dân Việt dưới vĩ tuyến 17. Phụ nữ Việt âm thầm chia xẻ từng giây
từng phút tranh đấu cho quyền sống và tương lai của chồng con trên đất người,
nơi tiếng nói, phong tục tập quán quá đỗi xa lạ. Phụ nữ quẩy những
gánh nặng trên vai trong dòng đời trong những thăng trầm lịch sử đã được đưa
vào văn chương. Hình ảnh cái cò cô đơn trên cánh đồng bao la là biểu
tượng là định mệnh người nữ trong cuộc đời và văn chương
Việt.
Cái cò đậu cọc bờ ao
Phất phơ hai giải yếm
đào gió bay
Cái cò trong hai
dòng thơ trên được ví von, hình ảnh một cô thôn nữ rất trẻ trong làng quê
êm đềm nào đó của Việt Nam ,
đang tuổi vào đời, mộng mơ. Cái cọc trơ vơ trong cái ao là hình
ảnh cô đơn, lẻ loi. Cái cò đậu cọc bờ ao còn cô đơn đến thế
nào. Mặt nước có lẽ phẳng lặng, gió có lẽ rất nhẹ để cò lặng người trong
suy tưởng. Còn hình ảnh nào trữ tình hơn, linh động hơn khi nhìn giải yếm
màu đào đang bay trong gió. Nếu chưa từng ở vùng thôn quê hẻo lánh ta chưa
biết màu hồng đào đẹp tuyệt. Đó là màu hồng thẫm duyên dáng chứ không phơn phót
hồng như màu hoa anh đào Nhật. Các cô thôn nữ đều có một bộ cánh rất duyên
dáng để mặc trong các ngày lễ hội của làng mình hay làng kế bên. Yếm màu
đào, áo dài tứ thân màu nâu, váy màu đen đậm dài quá gót chân, đôi hoa tai bạc,
tóc vấn vải có màu nâu của áo, hay màu đen của váy hoặc tóc vấn trần, và cái
đuôi gà tóc dài đong đưa, dùi tượng màu đào hay màu thiên lý, chuỗi
xà tích bạc, môi đỏ má hồng mắt long lanh say trầu hay vì niềm vui ngày
hội. Mỗi bước đi có nhạc điệu uyển chuyển, âm thanh xao động của chuỗi xà
tích bạc.
Yếm đào, màu hoa đào,
màu của mùa xuân, màu của tuổi đang yêu, màu của nguồn sống, màu của thi
nhân. Màu đào chỉ dành cho con gái.
Tranh thủy mặc chỉ vài
nét mực để người thưởng ngoạn thả hồn mơ tưởng thế nào thì hai dòng thơ trên
cũng chỉ là hai câu thơ ước lệ tuyệt vời để người đọc mường tượng. Tranh
thủy mạc, thơ lục bát dễ hiểu: dòng thơ đầy hình ảnh đầy nhạc điệu đã chuyên
chở được một kho tàng văn hóa giàu nghệ thuật và đầy suy tưởng.
Phất phơ hai giải yếm
đào gió bay.
Hai giải yếm mong manh
trong gió nhẹ như cánh bướm chập chờn đưa người vào dòng lịch sử của
người phụ nữ từ ngày lập quốc. Giải yếm huyền hoặc bay phất phơ trên
màn vi tính, tạm dừng một giây phút thì thầm cùng người viết, rồi lại phất phơ
bay, sẽ vẫn và mãi mãi là hình người phụ nữ Việt luôn luôn sát cánh bên chồng,
ôm ấp đàn con trong chức năng làm vợ, làm mẹ, trong không gian hiện hữu của
ngày hôm nay và ngày mai.
Hình ảnh người phụ nữ
thuở xưa được đưa vào văn chương từ cái nhìn nghệ thuật mặc khách tao
nhân. Qua muôn đời họ đà nhận thức được những vất vả, cô đơn mênh mông
vây toả, định mệnh người phụ nữ trong xã hội Nho Phong cổ kính Việt Nam .
Em về thưa với mẹ
thầy
Có cho anh cưới tháng
này hay chưa.
Mặc bộ cánh đẹp để làm
đẹp cho mình và cho đời trực diện định mệnh. Chàng đã yêu nàng lắm, thốt
nên lời lời cầu hôn. Chờ đợi nàng thưa cùng mẹ cha …chờ đợi nàng yêu
chàng…chờ đợi nàng thôi mơ mộng. Cho dù lãng mạn là thế nhưng không vượt
qua lễ giáo.
Lời tỏ tình chân thật,
mộc mạc làm xiêu lò ng người đẹp. Thiếu chàng nàng sẽ bâng khuâng, sẽ
thẫn thờ, sẽ mong ước được đọc những lá thơ thơm mùi giấy mới thơm mùi mực…và
nàng đã thốt nên:
Ước gì sông rộng một
gang
Bắc cầu giải yếm cho
chàng sang thăm
Người phụ nữ trong thời
tao loạn phải quẩy một gánh giang sơn nhà chồng, bổn phận làm dâu, bổn phận làm
vợ, làm mẹ không được biết tới qua văn chương bác học nhưng chúng ta nhìn thấy
nỗi vất vả, nỗi cô đơn, sự câm nín của người nữ qua những câu ca dao trong văn
chương dân gian.
Thời gian mơ mộng không
dài là bao và thời gian hạnh phúc có lẽ ngắn ngủi lắm cho nên chưa có một dòng
thơ nào diễn tả được niềm hạnh phúc nhỏ nhoi mà cái cò đậu cọc kia mơ ước
trong tuổi hồn nhiên. Bức tranh cái cò đậu cọc bờ ao …mênh mông nỗi
buồn nhưng không đậm nét bằng hình ảnh gian nan vất vả của cái cò khi làm vợ,
làm mẹ.
Con cò lặn lội bờ
sông
Gánh gạo đưa chồng
tiếng khóc nỉ non
Nàng vê nuôi cái cùng
con
Để anh đi trẩy nước
non Cao Bằng
hoặc:
Anh đi em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn
Mẹ già em thương
Nhà thơ Trần Tế Xương là
người đưa hình ảnh cái cò vào văn chương bác học .
Quanh năm buôn bán ở
mom sông
Nuôi đủ năm con với
một chồng
Lặn lội thân cò khi
quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi
đò đông...
Màu yếm đào của thuở
xuân chẳng còn dấu vết gì, cái sinh động một thời nay còn lại là hình ảnh héo
hon gầy còm trong cả văn chương dân gian và văn chương bác học ( cho dù quá ít
cũng phản ảnh được thân phận người nữ trong xã hội Việt Nam .)
Cái cò đậu cọc bờ ao
Phất phơ hai giải yếm
đào gió bay
Em về thưa với mẹ
thầy
Có cho anh cưới tháng
này hay chưa
Hai chữ …hay chưa …cho
người đọc hiểu rằng cây si này là một anh chàng có học …cây si này có lẽ cũng
là …một anh chàng …xe bồ luân dù chưa gặp thang văn. Thi trượt trở về
làng quê dạy học làm thầy đồ và có thời giờ làm thơ.
Ít ra thì cũng có một
nhà thơ nào đó, một anh Cử anh Khóa nào đó, văn hay chữ tốt không
kém Trần Tế Xương mới dám cả gan viết lên được bốn câu thơ lục
bát tuyệt vời, một bức tranh đầy ấn tượng được truyền từ đời này qua đời khác.
It ra thì tác giả đã đưa được cái đẹp, niềm cô đơn, gánh nặng của người nữ Việt
Nam
vào văn học dân gian mà không cần ai biết tên tác giả. Cái ngông
của kẻ sĩ trong thời bút lông cực thịnh của quê nhà là thế và có lẽ nền văn
chương dân gian ra đời là thế.
Ít ra Trần Tế Xương đã
đưa hình ảnh người bạn đời, hình ảnh người nữ, hình ảnh một con cò nhỏ bé, vào
nền văn chương bác học qua bài Thương Vợ. Ông là người đầu tiên viết về
lòng yêu mến, biết ơn người vợ một nắng hai sương của mình.
Anh đi em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn
Mẹ già em thương
Một gánh nặng trên vai
người nữ. Chia xẻ gánh nặng để chồng đi chinh chiến. Hơn những người
phụ nữ của một thời Nho Phong, người phụ nữ trong nửa thế kỷ vừa qua, không
những quảy một gánh nặng trên vai, còn bị vùi dập, bị ngược đãi, bị
khinh khi của tầng lớp cai trị trong chính quê hương Việt những năm tháng chồng
bị lao tù cộng sản nơi sương lam chướng khí. Trong thời gian này người
phụ nữ Việt Nam phải sống vùng kinh tế mới với đói khát bệnh tật…đương đầu với
những thảm cảnh hãi hùng trên đường tìm tự do trên đường bộ, trên đường biển
với tử vong cao độ làm thức tỉnh lương tâm nhân loại. Tinh thần phấn đấu,
chịu đựng, kiên nhẫn, hy sinh của người phụ nữ Việt đã nuôi con nên người tuy
rằng những người chồng, người cha đã hy sinh ngoài mặt trận, chết trong lao tù
cộng sản, hay trên biển đông.
Cái cò đậu cọc bờ ao
Phất phơ hai giải yếm
đào gió bay
Hai giải yếm như cánh
bướm bất tử trong lịch sử, trong văn học, định mệnh người phụ nữ Việt Nam,
người phụ nữ Việt đã chia gánh nặng với chồng từ ngày lập quốc. Ngoài
Trưng Triệu còn bao nhiêu người phụ nữ khác trong bóng mờ với sự hy sinh không
tưởng, với lòng nhẫn nại vô biên của mẹ, linh hồn những giải yếm bay trong gió
đã và đang ôm ấp một Việt Nam.
Hình ảnh người nữ trong
thi ca vẫn là nét đẹp. Một nét đẹp còn ở mãi trong tâm hồn chúng ta những
người yêu con chữ quê hương; cho dù chúng ta đang sống trong thời đại vi tính
với mạng, với net, với facebook, với twitter nhưng chưa ai làm thơ hay vẽ được
bức tranh tuyệt vời : nét đẹp của người phụ nữ và cái định mệnh.
Cái cò đậu cọc bờ ao
Phất phơ hai giải yếm
đào gió bay
Biểu tượng hay định mệnh
nào ai khẳng định. Thay cho cây cọ, gam màu là những con chữ dân gian
thường dùng, những câu thơ lục bát đã vẽ một bức tranh tuyệt vời về người phụ
nữ Việt qua hình ảnh gần gụi nhất trong cảnh thôn quê… cái cò, con cò…bờ ao …
Thơ lục bát trong ca dao trở thành lời ru của mẹ qua những thăng trầm của
đời mẹ, của quê hương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét