Dân tộc nào cũng có thức
ăn truyền thống, song chưa thấy dân tộc nào có một thức ăn vừa độc đáo, vừa
ngon lành, vừa bổ, vừa gắn liền với truyền thuyết dân tộc lâu đời, lại vừa có
nhiều ý nghĩa sâu xa về vũ trụ, nhân sinh như bánh chưng, bánh dầy của Việt
Nam.
Bánh chưng hình vuông,
màu xanh, tượng trưng trái Đất, thuộc âm. Bánh dầy hình tròn, màu trắng, tượng
trưng Trời, thuộc dương, thể hiện triết lý Âm Dương, Dịch, và triết lý Vuông
Tròn của Việt Nam nói riêng. Bánh chưng bánh dầy là sản phẩm lâu đời của nền
văn minh nông nghiệp lúa nước. Nó bình dị thân thiết màu xanh tươi tắn như mạ
non thì con gái chứa đựng nhiều lý thú. Sản phẩm hoàn toàn từ nông nghiệp: trồng
trọt và chăn nuôi.
Bánh chưng âm giành cho
Mẹ, bánh dầy dương giành cho Cha. Bánh chưng bánh dầy là thức ăn trang trọng,
cao quí nhất để cúng Tổ tiên, thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn, nhớ công
ơn sinh thành dưỡng dục to lớn, bao la như trời đất của cha mẹ.
Đơn giản như thế nhưng nó thể hiện tính tư duy sâu sắc của người xưa. Cắt chiếc
bánh chưng, một tổng thể năm sắc màu hiện lên: vàng ngà hạt đỗ bùi bùi thoảng
hương, đỏ thịt lợn chín, trắng ngần màu nếp, xanh lá dong và đen tuyền sợt lạt
buộc bên ngoài. Từ trong ra ngoài, thể hiện triết lý: Âm dương, Tam tài và Ngũ
hành.
Theo truyền thuyết, bánh
chưng bánh dầy có từ thời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi phá xong giặc Ân.Vua muốn
truyền ngôi cho con, nhân dịp đầu xuân, mới hội các con mà bảo rằng: ”Con nào
tìm được thức ngon lành để bày cỗ có ý nghĩa hay thì ta truyền ngôi cho”.
Các con trai đua nhau kiếm
của con vật lạ, hy vọng được làm vua. Người con trai thứ mười tám của Hùng
Vương thứ 6 là Lang Liêu, tính tình thuần hậu, chí hiếu, song vì mẹ mất sớm,
không có người mẹ chỉ vẽ cho, nên rất lo lắng không biết làm sao, bỗng nằm mơ
thấy Thần bảo: ”Vật trong trời đất không có gì quí bằng gạo, là thức ăn nuôi sống
người. Nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng trưng Trời Đất.
Lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh thành”.
Lang Liêu tỉnh dậy, mừng
rỡ làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn làm thành hai thứ
bánh là bánh Dầy và bánh Chưng. Vua nếm bánh, thấy ngon, lại khen có ý nghĩa
hay, bèn truyền ngôi cho Lang Liêu.
Từ đó, cứ đến Têt nguyên
đán hay các đám cưới, đám tang, dân gian bắt chước làm theo, sau thành tục lệ để
cúng Tổ tiên, cúng Trời Đất.
Bánh chưng độc đáo, sáng
tạo, đậm đà bản sắc dân tộc còn ở những vật liệu và cách gói, cách nấu. Lúa gạo
thì tượng trưng cho nền văn hóa lúa nước, nhiệt đới, nóng và ẩm, được chế biến
dưới nhiều hình thức khác nhau, mang tính đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam hay
Đông Nam Á. Người Trung Hoa ưa chế biến từ bột mì hơn; người Ấn Độ thì ưa chế
biến từ kê…
Thịt lợn được coi là
lành nhất, đậu xanh vừa ngon lành vừa bổ dưỡng, lá chuối hoặc lá dong nơi nào
cũng có, nói chung nguyên vật liệu làm bánh dễ kiếm, cách gói bánh và nấu bánh
cũng không quá phức tạp, chỉ cần có kinh nghiệm hoặc bày cách cho nhau thì sẽ
có bánh ngon. Hai thứ bánh như thế rất nhiều chất, đặc trưng của các món ăn Việt
Nam. Thời gian nấu bánh khá lâu khiến các chất như thịt, gạo đậu nhừ, có đủ thời
gian chan hòa, ngấm vào nhau, hương vị tổng hợp độc đáo, để lâu vẫn không hư hỏng…
qua đó mang một triết lý sống chan hòa, hòa đồng, bền chặt của dân tộc ta.
Bánh chưng, bánh dầy quả
thật là một món ăn độc đáo có một không hai của dân tộc. Bánh chưng là một
trong những bằng chứng cụ thể chứng tỏ văn hóa ẩm thực Việt Nam không hề phôi
phai theo thời gian và không gian sinh hoạt của dân tộc. Chỉ gói gọn trong chiếc
bánh chưng xinh xắn kia là cả tư duy độc đáo, đáng khâm phục của ông cha. Nó đã
thoát khỏi đơn thuần là vật chất, móm ăn bình thường trở thành đại diện chuyển
tải tư tưởng triết lý sâu sắc đậm nét nông nghiệp lúa nước. Từ đây, cần nên gìn
giữ phát huy cho xứng đáng với vị thế chiếc bánh chưng trong ngày tết.
Tham
khảo từ nhiều nguồn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét