Mộc Nhân
Bài thơ quen thuộc và sự phân tích trong nhà trường cũng quá quen thuộc; tôi đọc lại và có thêm mấy góc nhìn mới - nhân sắp đến xuân con Cọp - Nhâm Dần, 2022
Bài đăng trên Tạp chí Đất Quảng – số xuân Nhâm Dần – 2022
“Nhớ rừng” – một bài thơ quen thuộc, được Thế Lữ viết năm 1934, trong tập “Mấy vần thơ”. Câu đề dẫn “Lời con hổ ở vườn bách thú” nhằm tránh đi sự suy diễn, quy chụp trong bối cảnh văn chương đương thời bị thực dân kiểm duyệt gắt gao. Tuy nhiên nội dung chủ đề của nó thì ai cũng nhận ra: một thông điệp về khao khát tự do, lòng yêu nước thầm kín được ẩn sâu vào tâm hồn của chủ thể.
Hình tượng con
hổ trong bài thơ cho dù là sự hóa thân trong nỗi niềm của thi sĩ, nó vẫn là một
chủ thể trữ tình, nhất quán và toàn vẹn.
Phần nổi của
bài thơ là câu chuyện của con hổ như lời đề từ. Phần chìm có ý nghĩa gợi liên
tưởng đến ý thức giải phóng cái tôi cá nhân, có cả tâm trạng nhớ tiếc, u hoài của
một dân tộc đang bị xiềng xích, khát vọng tự do; phủ nhận thực tại hướng về quá
khứ oanh liệt. Đó chính là thông điệp từ bài thơ.
Bi kịch của con
hổ được nhìn nhận ở mấy góc độ:
- Hoàn cảnh đổi
thay nhưng con hổ không đổi thay. Bởi nó không chịu hạ mình, không chấp nhận
hoàn cảnh.
- Ý thức về vị
thế “chúa sơn lâm” nên nó không chấp nhận hoàn cảnh thay đổi mà thay đổi theo
hoàn cảnh.
- Nhận thức về
nghịch lí là nó phải chung sống với những thứ giả tạo, tầm thường, kém cỏi mà
nó không thể nào chấp nhận được.
Đó là những bi
kịch và nghịch lý mà nhà thơ Anh Lord Byron viết trong một tiểu luận: “Con người là trò tiêu khiển
của hoàn cảnh khi mà hoàn cảnh tưởng chừng như là trò tiêu khiển của con người
(Men are the sport of circumstances when it seems circumstances are the
sport of men).
Cả ba góc độ ấy
tạo nên niềm u uất chạy suốt bài thơ, đi vào từng câu thơ để từ đó tạo nên
sự xung đột, giằng xé dữ dội. Trong cái xung đột ngột ngạt ấy có nỗi đau của kẻ
bất đắc chí về những tháng ngày: “Thuở
tung hoành hống hách những ngày xưa”. Còn giờ đây là những tháng ngày
ngao ngán mà chủ thể trư tình đang trải qua: “Nay sa cơ chịu nhục nhằn tù hãm/ Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi”…
Xem ra, có
vẻ như hiện thực đầy đủ về vật chất để làm vui lòng “kẻ nô lệ”, làm cho họ quên
đi thân phận tôi đòi nhưng thật ra đó là những thứ sắp đặt vô hồn nhằm thủ tiêu
sức mạnh và ý chí của hổ, biến con hổ thành vật trang trí cho cuộc sống màu
mè của con người: “Hoa chăm, cỏ xén,
lối phẳng, cây trồng/ Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng/ Len dưới nách những
mô gò thấp kém”…
Và chua chát
hơn nữa là nó bị “tầm thường hóa” khi chung sống với những kẻ “dở hơi”, yên phận,
cơ hội làm tôi mọi cho kẻ mạnh mà tàn ác.
Giữa con hổ với
những con thú khác giờ đây đã có sự thay bậc đổi ngôi. Từ vị thế của kẻ nhận thức
được giá trị của mình là “chúa tể muôn loài”, lúc này con hổ đã thực sự đau buồn,
uất hận khi phải chấp nhận nghịch cảnh: “Chịu
ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi/ Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.”
Nói theo ngôn
ngữ hiện đại là môi trường tự nhiên và môi trường xã hội thay đổi đã tạo nên những
xung đột nội tâm của chủ thể trữ tình.
Tâm trạng chán
ngán “Nằm dài, trông ngày tháng dần
qua” là sự chờ đợi một cách vô vọng; còn “khối căm hờn” thực sự có lẽ nó hướng về con người. Những kẻ
dùng sức mạnh để cướp đi quyền tự do; gán ghép vào đời sống của nó một thứ
“bình đẳng” giả hiệu.
Nhưng thật đáng
trân trọng là dù môi trường, thân phận, thứ bậc, quan hệ… tất cả đã thay đổi;
quyền lực, sức mạnh đã bị tước đoạt nhưng con hổ vẫn không cúi mình.
Trong từng đoạn
thơ, chủ thể đã bộc lộ nhiều sắc thái tâm trạng khác nhau: lúc thì chán chường
trước hiện tại: “Gặm một khối căm hờn
trong cũi sắt/ Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua”; lúc thì hồi tưởng mở về
phía quá khứ vàng son oanh liệt: “Nhớ cảnh
sơn lâm bóng cả cây gìà/ Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi/ Với
khi hát khúc trường ca dữ dội/ Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng…”; lúc
thì uất hận, tiếc nuối đến quặn lòng mà thốt lên thành lời: “Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối/ Ta say
mồi đứng uống ánh trăng tan/ Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn/ Ta lặng
ngắm giang sơn ta đổi mới…”; lúc thì đớn đau than vãn: “Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu!”… Nhưng toàn bài thơ, người
đọc không hề thấy cái bi lụy của kẻ sa cơ mà cảm nhận được cái bi tráng của bậc
anh hùng bất đắc chí: “Hỡi oai linh cảnh
nước non hùng vĩ/ Là nơi giống Hùm thiêng ta ngự trị/ Nơi thênh thang ta vùng vẫy
ngày xưa/ Nơi ta không còn được thấy bao giờ!”
Chính sự đa dạng
về ngôn ngữ, trạng thái cảm xúc như vậy nên người đọc mới cảm nhận được cái
không khí tuy chán ngán nhưng không buông xuôi mà kìm nén để sẵn sàng bùng phát
làm nên xung lực trong toàn bài thơ.
Quá khứ và hiện
tại, tự do và nô lệ, cái mất và cái còn, tầm thường và trác việt, chán chường tẻ
nhạt và rực rỡ huy hoàng… luôn đan xen nhau, hỗ trợ cho nhau tạo nên những vẻ đẹp
lấp lánh nhiều sắc màu, nhiều cung bậc tình cảm, nhiều giọng điệu trong toàn
bài thơ.
Tuy nhiên, tinh
thần cơ bản của bài thơ là một hoài niệm, từ đó mở ra cả ba phía: quá khứ huy
hoàng - hiện tại u uất và tương lai là một hướng mở mà ẩn số của nó là nội lực
cá nhân cùng với xu hướng giải phóng dân tộc bị áp bức của thời đại bấy giờ.
Đó chính là yếu
tố tạo nên chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Mạch cảm xúc trong tác phẩm vận động
theo cả ba chiều. Đối với con hổ, quá khứ dầu sao cũng đã đóng lại, chủ thể trữ
tình trong hiện thực ách nô lệ nhưng nó vẫn khơi gợi tương lai từ sức mạnh của
mình. Điều đáng quí là dù kẻ bị tước mất tự do, bất lực, bế tắc dường như vô vọng
nhưng vẫn giữ được niềm tin, vẫn giữ được mình, không vì hoàn cảnh mà vong
thân, cúi đầu.
Vậy nên cách duy nhất để ứng phó với
một thế giới không tự do là trở nên tự do tuyệt đối đến mức thậm chí sự tồn tại
đầy lãng mạn của cá thể cũng là phản kháng (dẫn theo Albert Camus - triết gia
Pháp, Nobel Văn học 1957).
Chuyện con hổ sống
trong vườn bách thú với tâm trạng “nhớ rừng” mang theo nhiều thông điệp đáng để
cho chúng ta phải suy ngẫm!
Tôi nghĩ nếu lời
đề từ mang tính tự sự của bài thơ là thông điệp giam cầm thì cái kết biểu cảm -
than vãn của nó là ý hướng tự do được ẩn sâu bên trong tiến trình của bản thể.
Hay nói như Hegel – triết gia Đức: “Lịch sử của thế giới chính là tiến trình của ý thức tự do” (The history of the world is none other than the progress of the consciousness of freedom).
Mộc Nhân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét