Mộc Nhân
Đọc tập tản văn Mỏng – Nguyễn Thị Thanh Thảo
Bài viết đã xuất bản trong tập tiểu luận: "Dưới Những Lớp Ngôn Từ", Mộc Nhân Lê Đức Thịnh, Nxb ĐN, 2023 (*)
Thanh Thảo |
***
***
Dường
như khi đọc Mỏng của Nguyễn Thị Thanh
Thảo, tôi nghĩ đến những bài thơ trong tập Lá
cỏ của Walt Whitman bởi lẽ tên tác giả và tập sách gợi cho tôi cái gì đó mỏng
manh, hồn nhiên như lá cỏ, lại tràn đầy tình yêu quê xứ. Chẳng hạn một đoạn thơ
của Walt Whitman trong bài Tự khúc (Song
of Myself) mà tôi dịch sau đây: “Tôi ngợi ca và hát về mình/ Điều tôi có thì
các người cũng có/ Vì mỗi nguyên tử thuộc về tôi, cũng hiện tồn đâu đó/ Thuộc về
các người, thuộc về sinh linh/ Tôi là kẻ rong chơi mời gọi hồn mình/ Nhàn nhã
lang thang ngắm nhìn mùa hè cây cỏ/ Mỗi hạt máu trong lưỡi tôi có đất đai và
gió/ Nguyên quán nơi đây, cha mẹ sống tại chốn này”. Tôi đã lạm trích Walt
Whitman để dẫn dụ rằng: may mắn cho ai sinh ra và lớn lên luôn có một miền ký ức
để gắn bó, để làm điểm tựa tinh thần, là huyết mạch đời sống.
***
Tập tản văn Mỏng của Thanh Thảo là những ghi chép, hồi
ức, câu chuyện dành cho quê hương. Mạch cảm xúc của Thanh Thảo dẫn người đọc đi
trong nỗi nhớ theo dòng thời gian; từ suy tư đến những điều đằm sâu, thao thiết
và ngưng đọng trong sinh quyển quê xứ.
Tác phẩm gồm 24 đoản khúc
được bao bọc trong vẻ đẹp cỏ cây (Màu hoa
di sản), âm vọng (Tập hát ru con),
sản vật (Nhớ tộ đường non, Mùi chè xanh),
cảnh vật (Phiến đá tuổi thơ), nỗi buồn
nhớ xa xăm (Niềm thương nhớ), chạm đến
ẩn ức người viễn xứ (Chuyển nhà, Tình
hoài hương)… Một số bài gần với bút ký hay hồi ký và nhân vật trần thuật xuất
hiện ở điểm nhìn người trong cuộc.
Những vỉa tầng thẩm mỹ,
văn hóa bản địa được Thanh Thảo khai quật, khám phá – dẫu rất mỏng nhưng đó là những gì mà tác giả đã đồng điệu trong dòng chảy của
hồn quê.
Hãy đọc vài đoạn trong bài
Màu hoa di sản, ta thấy cả
một niềm yêu: “Màu hoa ngô đồng ở vùng trời hải đảo
này cũng khác xứ Tàu hay xứ Huế, giữa xanh thẫm của núi rừng cứ ngời ngợi lên sắc
chói chang rực rỡ của một thức đỏ cam. Màu ấy, tự những năm gần đây đã mang về
cho vùng đất Tân Hiệp cù lao một di sản đặc thù: di sản một loài cây”. Không chỉ
dừng lại ở đó, từ cây ngô đồng trên một cù lao miền trung, tác giả liên tưởng đến
“màu ngô đồng với sắc tím nhạt thơ mộng như xứ sở thần kinh nở nhiều trong
thành nội khiến cái nắng oi ả của ngày đầu hè cũng trở nên êm dịu”. Và những
huyền thoại được nhắc đến trong sách xưa “loài cây tươi tốt để dành cho phượng
hoàng ghé đậu”. Cuối cùng là những hoài niệm về vẻ đẹp của “cây ngô đồng trong
vườn nhà gắn với những bàn tay thoăn thoắt bện võng ngô đồng của cụ bà ở quán
bên đường… tất cả như vừa được khơi mở lại niềm vui”.
Quả là một trường
liên tưởng tài tình. Dưới cái nhìn của tác giả, cỏ cây không những chỉ
có đặc điểm nhận diện mà còn ẩn chứa sự sống, vận khí, tinh hoa giữa cõi thực
và thơ. Màu hoa di sản ấy vừa là niềm
trân trọng trước vẻ đẹp, lòng ngưỡng vọng trước đất trời và niềm cảm phục với
tiền nhân.
Không chỉ hoa mà những thứ
bình dị hơn như cái ao với “mùi thơm sực nức ấy, mùi thơm
thân tình của một xóm nghèo tàn lụi sau chiến tranh” dẫu “thay vào đó là mùi bê
tông, mùi vôi vữa, mùi hóa chất, mùi của những nỗi bất an giữa thời đại thái
bình” nhưng vẫn là “một chứng nhận gốc gác nhà quê bần cốt đến thâm căn cố đế
không cách gì có thể rời xa” (Nhớ ao).
***
Phần lớn các tản văn trong
Mỏng là những mảnh ghép ký ức mà
phông nền của nó là khung cảnh làng quê, ruộng đồng, vườn tược, sông suối, núi
đồi, bàu cồn… giúp bạn đọc hình dung sinh thái xứ trung du trong từng câu chữ.
Trong tâm tưởng hướng về
phía cội rễ - nơi người kể sinh ra và lớn lên, sự gắn bó với sinh cảnh làng
luôn đi liền với niềm thương cha nhớ mẹ trong những năm tháng cơ cực: “Tuổi
thơ anh em chúng tôi lớn lên cùng những nghèo khó của sắn của khoai, của những
cua cá ngoài đồng nhưng đó là tuổi thơ đầy cảm giác an toàn và tinh sạch”.
Câu văn của Thanh Thảo day dứt niềm cảm thán và lòng người còn thơm mãi mùi vị
quê hương trong dư âm tuổi thơ đọng lại theo thời gian chẳng thể nào phôi pha:
“Có lẽ, khó có mùi thơm nào khiến tôi lại có thể dễ dàng hình
dung đến thế… Tôi khó mà quên thứ mùi thơm sánh mịn của đường non được ăn trong
cảm giác chực chờ thèm đến rỏ nước dãi của mấy anh em khi mà cái bụng dường như
lúc nào cũng cồn cào vì đói. Vị ngọt ấy, màu vàng đượm ấy tan chảy trong miệng,
trong nỗi thèm thuồng của đám trẻ nghèo mà rồi có thể cả cuộc đời không thức
cao lương mỹ vị nào có thể lấp đầy (Nhớ tộ
đường non).
***
Tôi nghĩ những mảnh ghép Mỏng ấy đã thành tháng năm, thành tuổi
thơ, thành một phần không thể thiếu của đời người. Chúng nối vào nhau trong một
bức panorama với nhiều gam màu xen kẽ đầy mỹ cảm và linh hồn của nó neo đậu
nơi những sự vật gần gũi, bình dị như tờ thư cũ, cánh thiệp, phiến đá, mùa màng,
ngọn đèn dầu… Mọi thứ gợi cho chúng ta cảm giác an nhiên, hiền lành: “Hình
ảnh chiếc đèn dầu với chúng tôi là một quá khứ thân thương hơn bao giờ hết… Cả
nhà tôi chắt chiu mua được cái đèn măng sông chỉ được dùng trong những kỳ lễ tết
hoặc giỗ chạp, còn lại ba cái đèn dầu con con đều là sản phẩm tự chế của các
anh tôi. Trong suốt một thời gian dài của tem phiếu và đói khổ, cả nhà “ba ngày
ăn hết một cân mắm” là nỗi lo tột cùng của mạ thì hy hữu lắm cả nhà trên nhà
ngoài mới được phép cùng sáng mấy ngọn đèn dầu. Nhưng chính từ ánh sáng lờ nhờ
hiu hắt ấy, anh em chúng tôi đã nương nhờ để lớn lên bớt tăm tối đời mình… Nhưng
trong một ký ức bất chợt, tôi bỗng nhớ đến nao lòng những buổi sáng tới trường
với cái mũi ám khói đèn dầu. Nỗi xấu hổ xa xưa giờ đây dường như cơ hồ như một
mùi hương kỷ niệm. Mùi hương ấy, nhất định phải là một buổi tối ấm áp cả gia
đình được sum vầy cùng nhau quanh một ngọn đèn dầu” (Nhớ ngọn đèn dầu).
Những hoài niệm ấy vừa tạo
tác, vừa che chắn, vừa là điểm tựa tinh thần cho con người. Tiếng lòng của tác
giả đồng vọng với những thao thức từng hiện tồn mà hôm nay trở thành ký ức – nối
dài giữa cội nguồn với bản thể: “Tôi chỉ có thể tin rằng,
nếu có tuổi thơ nào đã từng được dung dưỡng trong những giá trị tri túc, thì thức
cao lương này nhất định sẽ còn mãi trong vẻ đẹp vang bóng của hồi ức” (Nấm nướng lùi tro).
***
Một
trong những yếu tính của văn chương là hướng đến cái đẹp và sáng tạo nên những
giá trị thẩm mỹ kết tinh từ những mỹ cảm, tâm thức hiện sinh và năng lực ngôn
ngữ. Những gì mà Thanh Thảo tái hiện trong Mỏng
không chỉ là những trầm tích, dấu lặng hay khoảnh khắc mà tất cả đã trở thành
tín hiệu thẩm mỹ với hành trình sống của tác giả. Nó không chỉ là quá khứ mà là
hiện tại; vừa cụ thể lại vừa khái quát; nói theo ngôn ngữ triết học là nó vượt
qua cảm quan “hiện tượng luận” để đi đến những giá trị thuộc “bản thể luận” - luôn
ám ảnh, khắc ghi, nương tựa trong tâm thức, hình thành cá tính và thiện căn của
người viết.
Bạn hãy lắng lòng đọc những
điều tác giả viết về sự cao cả của đấng sinh thành trong những đoản văn cảm động:
“Thời niên thiếu của tôi đã lấy đi của cha một phần cuộc sống.
Khi tôi 15 tuổi, tóc cha chỉ chớm muối tiêu; năm vào đại học, lần đầu tiên trở
về nhà, tôi rưng rưng thấy tóc cha trắng bạc. Lòng thảng thốt nghĩ về những cuộc
vui bất tận với bạn bè, những giờ cà phê, những buổi mưa dầm trốn học đi
hoang…thấy ba lô trên vai đã để xuống mà chân muốn khuỵu lại vì cảm giác mang tội
với biết bao âu lo của người cha già… Mỗi người, có thể sớm hay muộn hơn, có thể
không bao giờ, nhưng ý niệm về cha mãi mãi là ý niệm vĩnh viễn. Nếu mẹ là dòng
suối của dịu dàng, yêu thương thì cha tựa như núi kia, uy nghi và lồng lộng” (Lời yêu thương).
***
Tôi bắt gặp cụm
từ khí hạo nhiên được Thanh Thảo sử dụng
nhiều lần, chẳng hạn: “Chị sinh vào mùa thu nên đấng sinh thành đã ước con gái
mình lớn lên sẽ hưởng được khí hạo nhiên ấy: hương mùa thu” (Tình hoài hương) hoặc: “thổ nhưỡng vùng
miền cù lao vẫn đủ khí hạo nhiên của đất trời để dung dưỡng vẻ đẹp của một loài
cây” (Màu hoa di sản)… Có lẽ tác giả
muốn nói đến cái linh khí tự nhiên của đất trời vận vào con người hay tạo vật.
Nhưng sâu xa hơn, khí hạo nhiên (Hạo
nhiên chi khí) là khái niệm đạo học chỉ về một phẩm cách tinh thần cao quý được biểu hiện ở nhiều mặt: nhân hậu, cương trực,
thái độ ứng xử tốt đẹp có khả năng thấu cảm với tự nhiên… Tôi tin rằng với những
gì được tái hiện trong Mỏng, người viết
đang hấp thụ và nuôi dưỡng cái khí hạo nhiên đó trong bản thể. Tinh tế hơn, bạn
sẽ nhận ra trong Mỏng không (có thể
là ít hoặc rất ít) những dòng chữ sân si, thù hằn, chê bai, xung khắc với đối
thể - phải chăng đó cũng là tinh thần của khí hạo nhiên mà tác giả nói đến
thông qua các nhân vật của mình. Nói như nhà thơ Lê Đạt: “Thơ văn là một cố gắng
về mỹ học cũng là một cố gắng về đạo đức học bởi nó thúc đẩy hướng thiện và nhân
tính”.
***
Tản văn là thể loại văn học
phi hư cấu, ít huy động tình tiết để tạo cốt truyện. Nó chú trọng việc tái hiện
cảm xúc từ quá khứ hay hiện tại bằng thể nghiệm của cái tôi trữ tình thông qua chuyện hay trạng thái; được biểu đạt bằng
ngôn ngữ trữ tình, tự nhiên, chân thực cùng với các phương thức nghệ thuật linh
hoạt: biểu cảm, nghị luận, thuyết minh, tự sự, miêu tả. Với những điển phạm thẩm
mỹ như thế, tôi nghĩ Mỏng của Thanh
Thảo tự nó đã mang đến cho bạn một tập tản văn hay – hoặc ít nhất là gần gũi, dễ
cảm, dễ thương.
Những điều nhỏ nhặt như: “một
tô canh rong mơ nấu đơn giản với chút ít tôm tươi, rắc thêm vài cọng hành lá chắc
chắn sẽ là sự kích thích vị giác vô cùng. Mùi của món ngon này, với tôi không
thể lẫn vào đâu được…” (Mùi rong mơ);
hoặc “vị ngon của nấm không phải chỉ ở cái đẹp của hình dáng, hương thơm của thảo
mộc mà chính là sự khơi gợi ở vị giác một vẻ đẹp về sinh tồn” (Nấm nướng lùi tro); hay “Giọt sương trên ngọn cỏ là có thể là
công án thượng thừa để bày tỏ một triết lý nhân sinh” (Giọt sương trên lá)… đều trở thành chất liệu cho tản văn ra
đời.
Nhưng để viết ra tản văn
thì đòi hỏi tác giả phải có trải nghiệm nội tâm, kiến thức và kỹ năng ngôn ngữ
để tạo ra các liên văn bản với lịch sử, xã hội, nhân sinh, văn hóa, nghệ thuật,
triết lý… trong những cấu trúc mở và tự do. Nói cho cùng, đó cũng là thử thách sáng
tạo khi người viết nắm trong tay quyền hạn của ngôn ngữ để tồn lưu ký ức đời sống
mới có những trang văn hay và đẹp.
***
Mỏng – đúng như tên gọi của nó - là một tập sách mỏng với nhiều bài viết ngắn/ có bài chỉ
dàn ra hai trang in khổ nhỏ, khoảng hơn 400 ký tự, đề tài bình dị. Ranh giới thể
loại trong tác phẩm khá "mỏng" nhưng bút pháp tự sự lại phong phú: có khi là dòng ý thức (stream of consciousness),
có khi là tối giản (minimalism), có
khi là ước lệ (formula)… được sử dụng
đan xen một cách có chủ đích nhằm tạo ra hiệu quả thẩm mỹ của dòng hoài niệm.
Bằng không gian tồn tại,
thời gian hồi tưởng, tâm thức chiêm nghiệm, Mỏng
của Thanh Thảo đã mang theo những cảm thức cội nguồn trong trí tuệ, tâm trí và
tiềm thức để chia sẻ cùng bạn đọc. Đó cũng là thái độ thẩm mỹ của tác giả đối với
đời sống. Chúng ta đọc được điều đó trên văn bản, qua những ký tự nhưng trong
tâm hồn mỗi người, nó lại đau đáu một dòng sóng vô ngôn thao thiết.
Và tôi nghĩ rằng, chỉ đến khi “Tâm thức tĩnh lặng thì mới nhận được phóng chiếu của vô thức” (The conscious mind must be still in order to receive the projection of the unconscious) – dẫn theo triết gia Đức, Krishnamurti – lúc đó chúng ta mới cảm thấu những hoài niệm thật Mỏng từ Thanh Thảo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét