15/10/12

225. BÀI THƠ "ĐỒNG CHÍ" - CHÍNH HỮU


Mộc Nhân  (Tư liệu giáo khoa)

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, hình tượng người nông dân mặc áo lính đã đi vào thơ ca một cách dung dị mà tuyệt đẹp. Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu cùng với một số bài thơ khác đã mở ra khuynh hướng viết về anh bộ đội bằng cách khai thác cái đẹp và chất thơ từ những cái bình dị nhất của cuộc sống, chiến đấu để làm nên vẻ đẹp của người lính cách mạng.

“Đồng chí” được Chính Hữu  sáng tác vào đầu năm 1948 sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947). Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, cả bài thơ tập trung thể hiện chủ đề tình đồng chí, chủ đề ấy thấm sâu vào từng chi tiết nghệ thuật của tác phẩm và được thể hiện qua ba đoạn của bài thơ.


1. Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ có cấu trúc song hành giới thiệu về sự xuất thân của người lính:
           “Quê hương anh nước mặn đồng chua
                     Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
          Với cách sử dụng một số thành ngữ dân gian, Chính Hữu đã gợi cho ta biết người lính xuất thân từ những người nông dân nghèo. Những người lính cách mạng đến từ những miền quê khác nhau trên khắp đất nước. Kẻ thì ở vùng quê nghèo ven biển nước mặn đồng chua; người thì ở miền trung du khô cằn đất cày lên sỏi đá.  
Từ những người xa lạ, giờ đây họ đã trở nên quen nhau. Nếu ở câu thơ thứ nhất, nhà thơ nói về anh; đến câu thơ thứ hai nói về tôi thì đến câu thơ thứ ba đã khéo dùng từ đôi (đôi người xa lạ) để nói lên tình thân, sự gắn bó chặt chẽ giữa những con người xa lạ ấy.
Mối tình đồng chí của họ bắt đầu hình thành trên cơ sở sự đồng cảm giai cấp xuất thân.

Khi đã trở thành người lính, họ đứng bên nhau trong đội hình:
“Súng bên súng,  đầu sát bên đầu”
Súng bên súng gợi lên sự cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, đầu sát bên đầu vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa tượng trưng nói lên họ là những người bạn ý hợp tâm đầu, cùng chung chí hướng, chung lí tưởng chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc.

Những gian lao thiếu thốn của đời lính cũng được họ cùng nhau chia sẻ:
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ ”
Đây là một câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm về một thời chiến đấu gian khổ, thiếu thốn. Những lúc chia ngọt sẻ bùi ấy đã gắn kết họ với nhau thành đôi tri kỉ.
Tri kỉ là đôi bạn thân, hiểu biết nhau. Như vậy là từ những người xa lạ, những chàng trai làng đã trở nên quen nhau trở thành bạn chiến đấu rồi thành  đôi tri kỉ. Mối tình tri kỉ ấy càng thắm thiết hơn và trở nên thiêng liêng, đó là tình Đồng chí .
Chính vì vậy, sau sáu dòng thơ đầu, nhà thơ Chính Hữu đã hạ một dòng thơ đặc biệt chỉ có một từ với hai tiếng và  một  dấu  chấm than :
                              “Đồng chí !”.
Đồng chí vừa là tên gọi của những người lính cùng trong đội ngũ, vừa là tiếng gọi thiêng liêng vang lên như một lời khẳng định giá trị chân thực thiêng liêng của tình đồng chí, nó như một dấu nhấn ngân vang trong bản đàn.
Đó chính là biểu hiện cho  sự kết tinh cao độ của tình bạn, tình người, tình giai cấp. Hai tiếng ấy  như một bản lề khép lại đoạn thơ đầu: sự hình thành tình đồng chí- và mở ra đoạn thơ thứ hai: những biểu hiện cụ thể và cảm động của tình đồng chí.

2.  Biểu hiện đó là sự thấu hiểu:
“ Ruộng nương anh gởi bạn thân cày
 Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
 Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính ”.
Những lúc cận kề bên nhau, họ lại kể cho nhau nghe chuyện quê nhà. Đối với mỗi người thì mảnh ruộng, gian nhà là những thứ thiết thân, gần gũi và gắn bó nhưng giờ đây họ phải gởi lại tất cả để lên đường chiến đấu.
Hai chữ “mặc kệ” nói được sự dứt khoát, mạnh mẽ tuy nhiên họ không phải là những người vô tình, bởi trong tâm hồn của họ luôn nhớ về những kỉ niệm vui buồn, những cuộc hò hẹn, yêu thương của những chàng trai cô gái bên “giếng nước gốc đa”.

Biểu hiện đó là sự chia sẻ những gian lao thiếu thốn của đời lính:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
 Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”.
Câu thơ gợi tả những trận sốt rét rừng khiến con người run rẩy lúc thì ớn lạnh đến thấu xương, lúc nóng sốt đến vừng trán ướt mồ hôi.
Chữ biết trong câu thơ vừa nói lên sự nếm trải, sự chịu đựng và cả sự thấu hiểu lẫn nhau. Người lính đã vượt qua những gian khổ ấy bằng nghị lực, bằng ý chí và bằng cả sự nâng đỡ của tình đồng chí.
Những gian khổ của đời lính không chỉ là bệnh tật mà còn là :
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày ”
Bằng những chi tiết rất thực được chọn lọc, nhà thơ đã miêu tả rõ nét cuộc chiến đấu gian khổ, thiếu lương thực, thuốc men, trang phục quân đội thì thiếu thốn giữa cái giá lạnh của núi rừng Việt Bắc.
Nhưng dù trong gian khổ, những người lính vẫn nở miệng cười buốt giá, một nụ cuời thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan.
Tác giả đã xây dựng những câu thơ sóng đôi, đối ứng nhau trong từng cặp từ ngữ, hình ảnh: anh với tôi…/ áo anh…quần tôi... để diễn tả sự gắn bó, chia sẻ, đồng cảm trong tình đồng chí thắm thiết. Đặc biệt là với hình thức liệt kê, những gian khổ thiếu thốn đó dường như chồng chất; để rồi cảm xúc dồn nén bỗng bừng lên qua câu thơ :“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay ”.
Bao thiếu thốn về vật chất đã được thay thế bằng tình yêu thương của những người đồng chí, đồng đội. Chỉ bằng một cử chỉ nắm tay nhau mà những người lính như đuợc tiếp thêm sức mạnh tinh thần. Tình cảm chân thành tha thiết ấy không diễn tả thành lời mà thể hiện bằng một hành động giản dị để động viên nhau vượt qua gian khổ.

3.     Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh đặc sắc:
          “Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
 Đầu súng trăng treo”.
Đây là một bức tranh đẹp về tình đồng chí đồng đội của người lính, là biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ.
Chính Hữu đã gợi lên khung cảnh rừng hoang sương muối - một đêm đông vô cùng lạnh lẽo giữa núi rừng hoang vu. Trong thời gian và không gian đó, người lính vẫn kiên trì đứng cạnh bên nhau để phục kích chờ giặc. Sức mạnh của tình đồng đội đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên trên tất cả những khắc nghiệt của gian khổ, thiếu thốn.
Đêm khuya, vầng trăng ở trên trời cao, khi trời về sáng, trăng xuống thấp dần và đến một lúc nào đó có cảm giác như trăng treo lơ lửng trên đầu súng. Hiện thực chiến đấu gian khổ vẫn không làm mất đi tâm hồn lãng mạn, luôn hướng đến cái đẹp của người lính. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo ” được nhận ra vào những thời khắc ấy.
Đây là một tứ thơ đẹp, xuất hiện khá bất ngờ vừa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng, gợi ra nhiều liên tưởng phong phú: lãng mạn và hiện thực tại; thi sĩ và  chiến sĩ… Tất cả các ý nghĩa ấy kết hợp với nhau, bổ sung cho nhau làm nên vẻ đẹp của người lính cách mạng.
         
          Bằng ngôn ngữ thơ giản dị, hàm súc, gần gũi với tâm tình người lính kết hợp với những chất liệu văn học dân gian, Chính Hữu đã tạo nên những câu thơ vừa hiện thực vừa mang màu sắc lãng mạn. Đồng chí là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người nông dân mặc áo lính trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ khép lại nhưng đã để lại trong mỗi chúng ta lòng tự hào và mến phục về anh bộ đội Cụ Hồ. Những con người áo vải, chân đất ấy đã góp phần viết nên những trang sử anh hùng của dân tộc. 

Không có nhận xét nào: