1/10/14

485. QUÊ HƯƠNG VÀ MẢNH HỒN LÀNG

Mộc Nhân
         (Bài thơ "Quê hương" của Tế Hanh)           
         Tế Hanh tên thật là Trần Tế Hanh, sinh ngày 20-6-1921 tại thôn Đông Yên, xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
            Làng quê của Tế Hanh là một vùng sông nước nằm ven bờ hạ lưu sông Trà Bồng, con sông đã "tắm mát” đời ông. Đây cũng chính là nơi tạo nên nguồn cảm hứng để ông sáng tác những bài thơ nổi tiếng về sông nước quê hương như: Quê hương, Nhớ con sông quê hương ...
Hoài Thanh - Hoài Chân trong “Thi nhân Việt Nam” viết: "Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi thường ta chỉ thấy một cách mờ mờ, cái thế giới những tình cảm ta đã âm thầm trao cho cảnh vật...". Hay nói cách khác cái tình quê da diết của Tế Hanh đã làm nên "mảnh hồn làng" trong bài thơ "Quê hương". Bài thơ đã được viết bằng tất cả tấm lòng yêu mến quê hương, yêu thiên nhiên thơ mộng, yêu mến những con người lao động cần cù.
            Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
            Nước bao vây cách biển nửa ngày sông
Tế Hanh giới thiệu về quê hương mình bằng những câu thơ chân mộc, hồn nhiên vậy mà, khi đọc lên không ai lại không cảm thấy nao lòng khi nghĩ về làng quê của mình với hình ảnh một "con sông quê hương" cuồn cuộn chảy trong tâm thức thi nhân với biết bao hồi ức chất đầy nỗi nhớ thương cồn cào, se thắt:
Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre.
Và con sông quê đó đã dẫn người dân chài ra biển lớn:
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Buổi bình minh thật đẹp, có những chàng trai cường tráng, khỏe mạnh "bơi thuyền đi đánh cá". Khung cảnh làng quê như đang mở ra trước mắt chúng ta trong thời khắc tươi đẹp của buổi sớm mai hồng, không gian rộng mở, thanh thoát: “trời trong – gió nhẹ”. Tất cả như báo hiệu cho ngày mới bắt đầu với bao nhiêu hi vọng.  Một ngày mới với tinh thần hăng hái, phấn chấn của biết bao nhiêu con người trên những chiếc thuyền ra khơi bình yên hứa hẹn những mẻ lưới bội thu.
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
            Nếu như những câu trên miêu tả cảnh vật thì hai câu thơ này đặc tả bức tranh đầy hứng khởi và dạt dào sức sống của con người trong buổi ra khơi. Câu thơ khiến ta hình dung những thân hình vạm vỡ, mạnh mẽ đang cùng chiếc thuyền lướt nhanh ra biển. Tất cả như  tiềm tàng sức sống mãnh  liệt của  làng chài nhỏ bé của nhà thơ. Chiếc thuyền được so sánh với “con tuấn mã” bỗng trở nên đẹp lạ lùng, mạnh mẽ hơn, thể hiện niềm vui và phấn khởi của những người dân chài. Những động từ “hăng”, “phăng”, “vượt” diễn tả đầy ấn tượng khí thế băng tới vô cùng dũng mãnh của con thuyền toát lên một sức sống tràn đầy nhiệt huyết,  lướt nhẹ tênh trên ngọn sóng bạc đầu thẳng tiến trùng khơi, đầy khí thế. Mái chèo “phăng” xuống nước vừa nhịp nhàng vừa mạnh mẽ là động tác của các chàng trai đang  hăm hở đi  chinh phục  biển cả.
            Có thể nói đây là một chuyến ra khơi đầy hào hứng. Những câu thơ miêu tả trực tiếp cảnh dân làng đi đánh cá vừa thực vừa lãng mạn giúp người đọc hình dung được hình ảnh đoàn thuyền khá sinh động. Đặc biệt là cánh buồm trong tư thế hùng tráng:
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
Từ hình ảnh của thiên nhiên, tác giả đã liên tưởng đến hồn người, phải là một tâm hồn nhạy cảm trước cảnh vật, một tấm lòng gắn bó với quê hương làng xóm Tế Hanh mới có thể viết được như vậy. Cánh buồm trắng vốn là hình ảnh quen thuộc nay trở nên lớn lao trước thiên nhiên. Cánh buồm trắng thâu gió vượt biển khơi như hồn người đang hướng tới tương lai tốt đẹp. Có lẽ nhà thơ chợt nhận ra rằng linh hồn của quê hương đang nằm trong cánh buồm. Hình ảnh thơ vừa thơ mộng vừa hiện thực đã vẽ nên chính xác hình thể vừa gợi được linh hồn của sự vật.
"Mảnh hồn làng" trong thơ Tế Hanh bình dị và trong trẻo đến lạ lùng. Chẳng phải là những hình tượng thơ hoành tráng, lớn lao mà giản dị, lặng lẽ, khiêm nhường như chính cái hồn thơ đôn hậu, tinh tế, trong trẻo của ông. "Mảnh hồn làng" ấy đã ăn sâu trong tâm thức của thi nhân để trở thành một thứ tâm cảm, một thứ tâm linh dào dạt và sâu lắng, tha thiết mà ngọt ngào để rồi sau này dù sống dằn dặt xa quê nhưng vẫn luôn cháy bỏng khát khao:  
Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
          (Vườn xưa)
            Nếu cảnh ra khơi hăng hái khí thế thì cảnh trở về với niềm vui ấm áp tình người. Trên bến đỗ, người dân đón ghe về như ngày hội bởi lẽ sau một ngày ra khơi xa, họ mong  trở về bình yên đoàn tụ.
Cả đoạn thơ là khung cảnh quê hương và dân chài trở về sau một chuyến ra khơi,  thể hiện được một nhịp sống hối hả của những con người năng động trong là sự phấn khởi với bao kết quả tốt đẹp:
Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.

Những tính từ “ồn ào”, “tấp nập” toát lên không khí đông vui, hối hả đầy sôi động của cánh buồm đón ghe cá trở về. Người đọc như thực sự được sống trong không khí ấy, được nghe lời cảm tạ chân thành đất trời đã sóng yên, biển lặng để người dân chài trở về an toàn và cá đầy ghe, được nhìn thấy “những con cá tươi ngon thân bạc trắng”. Tế Hanh không miêu tả công việc đánh bắt cá như thế nào nhưng ta có thể tưởng tượng được đó là những giờ phút lao động không mệt mỏi để đạt được thành quả như mong đợi.
Một khung cảnh thật náo nức thanh bình, mang dáng vẻ ấm no đang bao phủ khắp làng, thẳm sâu trong tâm khảm người dân là lòng biết ơn thiêng liêng, mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc: “Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe”.  
Sau chuyến ra khơi là hình ảnh con thuyền và con người trở về trong ngơi nghỉ:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về năm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Dường như trong niềm vui thu hoạch “cá đầy ghe” ấy, đây mới là lúc ta được dịp ngắm nhìn những người đánh cá vừa mới trở về. Họ hiện ra trong dáng vẻ vạm vỡ, từng trãi “làn da ngăm rám nắng/ Cả thân hình nồng thở vị xa xăm”.
Câu thơ thật đẹp, vừa lãng mạn vừa tả thực, hình ảnh “làn da ngắm rám nắng” hiện lên để lại dấu ấn vô cùng đẹp đẽ. Những người đánh cá như mang theo hơi thở, mùi vị của biển cả. Họ chính là những sinh thể của đại dương, họ là những đứa con của biển. Câu thơ có tầm vóc đó cho thấy cách cảm nhận tài hoa, khỏe khoắn của tác giả.
Với con người là vậy, còn với những con thuyền thì sao? Chúng cũng được nhân hóa như một sinh thể sống động “nằm” yên lặng như thể đang nghỉ ngơi, thư giãn sau một ngày vật lộn với sóng gió. Cụm từ “im bến mỏi” là một sự kết hợp thật đẹp, cô đúc tối đa mà lại rất gợi. Có thể nói câu thơ đã chỉ ra được trạng thái thư giãn, hài lòng với chuyến ra khơi vừa qua của con thuyền. Cho nên, con thuyền mới “nghe", mới cảm nhận vị muối của biển như tỏa lan trong từng thớ gỗ. Con thuyền trở nên có hồn hơn, nó không còn là một vật vô tri vô giác nữa mà đã trở thành người bạn của ngư dân. Hai câu thơ vừa đẹp trong cách hình dung, vừa thấy được vẻ yên lặng thanh bình, vừa như gặp đâu đây những thư thái mãn nguyện.
Có thể nói rằng đây chính là những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của bài thơ mang theo cái cả linh hồn và tầm vóc của con người biển cả.
Tế Hanh đã tinh tế đưa vào thơ của mình hình ảnh sinh hoạt trong cuộc sống của quê hương: Cảnh tấp nập ghe thuyền cá đầy khoang trên bến đỗ, những con thuyền như tuấn mã căng cánh buồm vôi trắng bạc lộng gió trên biển xanh mênh mông như mảnh hồn làng của ngư phủ giữa sóng nước đại dương. Hình ảnh những con thuyền nằm im bến mỏi sau chuyến ra khơi… Và, cả cái mùi nồng mặn quá của một làng chài. Chính vì vậy, thơ Tế Hanh gần gũi, quen thân với người yêu thơ.
Không phải người con làng chài thì không thể viết hay như thế, tinh như thế, và cũng chỉ viết được những câu thơ như vậy khi tâm hồn Tế Hanh hoà vào cảnh vật cả hồn mình để lắng nghe.
Có lẽ, chất mặn mòi kia cũng đã thấm sâu vào da thịt nhà thơ, vào tâm hồn nhà thơ để trở thành nỗi niềm ám ảnh gợi bâng khuâng kì diệu. Nét tinh tế, tài hoa của Tế Hanh là ông “nghe thấy cả những điều không hình sắc, không âm thanh như “mảnh hồn làng” trên “cánh buồm giương”…
Hồn quê trong thơ Tế Hanh chính là kết tinh của "mảnh hồn làng" và đó là cái làm nên giá trị của thơ ông. Nó đã ôm ấp không chỉ sông biển quê hương, con đường quê với những ngày nghỉ học, những vườn xưa lối cũ và cả hình ảnh của những con người dân quê lam lũ "Sớm khuya chài lưới bên sông / Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng"...
Nói lên tiếng nói từ tận đáy lòng mình là lúc nhà thơ bày tỏ tình cảm của một người con xa quê hướng về quê hương, về đất nước :
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá
Nhà thơ đang xa quê nhưng vẫn hình dung được một khung cảnh sống động của làng quê như đang ở trước mắt. Ta có thể nhận ra rằng quê hương luôn nằm trong tiềm thức nhà thơ, quê hương luôn hiện hình trong từng suy nghĩ, từng dòng cảm xúc. Nỗi nhớ quê hương thiết tha bật ra thành những lời nói vô cùng giản dị: “Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá”.
Nghĩ đến quê hương là nhà thơ nhớ đến ngay cái mùi vị "nồng mặn" của quê hương, cái mùi vị ấy được gợi ra từ "nước xanh, cá bạc, cánh buồm vôi".
Tất cả làm nên vẻ đẹp của quê hương làng chài. Cái “mảnh hồn làng” của quê hương nhà thơ vừa có cái chung vừa không lẫn với bất cứ làng quê nào khác.           

Không có nhận xét nào: