Mộc Nhân
Trong dòng văn thơ cổ Việt
Nam có hai nữ thi sĩ được nhiều người biết đến đó là Hồ Xuân Hương và Bà Huyện
Thanh Quan. Nếu như thơ văn của Hồ Xuân Hương sắc sảo, góc cạnh thì phong cách
thơ của bà Huyện Thanh Quan lại trầm lắng, sâu kín, hoài cảm…
Bà Huyện Thanh Quan tên
thật là Nguyễn Thị Hinh sống vào nửa đầu thế kỷ XIX, quê ở làng Nghi Tàm, kinh
thành Thăng Long. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình, nên người
đời trân trọng gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan. Bà xuất thân trong một gia đình
quan lại, có tài văn thơ, giỏi nữ công gia chánh nên được vua Minh Mệnh vời vào
kinh đô Phú Xuân làm “Cung trung giáo
tập”.
Tác phẩm bà để lại không
nhiều, những bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật được nhiều người biết đến:
“Qua Đèo Ngang”, “Chiều hôm nhớ nhà”,
“Thăng Long thành hoài cổ”, “Chùa Trấn Bắc”, “Chơi đài khán xuân Trấn Võ”, “Tức
cảnh chiều thu” thường có giọng man mác buồn,ngôn ngữ trang nhã, tinh tế
điêu luyện với hồn thơ đẹp.
Bài thơ “Qua Đèo Ngang”
được sáng tác khi bà trên đường vào Phú Xuân. Cảnh Đèo Ngang lúc xế tà bóng xế
đã gợi lên nỗi buồn cô đơn của người lữ khách.
Ca dao vùng Hà Tĩnh có
câu: “Trèo đèo hai mái chân vân / Lòng về
Hà Tĩnh dạ ái ân Quảng Bình” gợi tả tâm trạng vấn vương quê hương cố xứ của
con người khi bước qua con đèo thuộc dãy Hoành Sơn, phân chia địa giới hai tỉnh
Hà Tĩnh và Quảng Bình. Trên Đèo Ngang nhìn ra xa chỉ có núi đá và biển, thiên
nhiên mênh mông hoang vắng. Đọc “Qua Đèo
Ngang” ta có thể thấu hiếu bức tranh tả cảnh ngụ tình sâu sắc của tác giả.
1. “Bước tới đèo ngang bóng xế tà / Cỏ cây chen đá lá chen hoa”
Hai câu đề tả toàn cảnh Đèo
Ngang từ điểm nhìn trên cao, bao quát vào thời khắc “bóng xế tà” – là lúc mặt trời đang dần khuất bóng, trời sắp tối.
Thời điểm này thường dễ gợi cảm giác lắng lòng thấm thía. Có lẽ vì vậy mà thơ
bà Huyện Thanh Quan thường thể hiện nét thi pháp thời gian này: “Trời chiều
bảng lảng bóng hoàng hôn / Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn…” (Chiều hôm nhớ nhà), “Dấu xưa xe ngựa hồn
thu thảo / Nền cũ lâu đài bóng tịch dương” (Thăng
Long thành hoài cổ)…
Không gian nơi đây mênh
mông nhìn đâu cũng chỉ thấy: “Cỏ cây chen
đá, lá chen hoa”. Hai vế tiểu đối kết hợp với điệp ngữ “chen” khiến ta hình
dung khung cảnh vật rợn ngợp, cỏ cây um tùm, hoang dã; âm hưởng của điệp vần: tà - đá – lá khiến câu thơ giàu âm điệu,
réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh hoang
vắng vùng đèo núi nơi đây heo hút đến nao lòng.
2. “Lom khom dưới núi tiều vài chú / Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Góc nhìn đã thay đổi từ
toàn cảnh đến cận cảnh nhưng tầm nhìn hãy còn xa.
Bóng dáng con người đã
xuất hiện nhưng chỉ có “tiều vài chú” đang “lom khom dưới núi” và “chợ mấy nhà”
thưa thớt, “lác đác bên sông”.
Một nét vẽ mang tính ước
lệ thường thấy trong thơ cổ, một trong bốn bức tranh tứ bình “ngư, tiều, canh, mục” được tạo dựng khá
nhẹ nhàng, tinh tế, ấm áp nhưng vẫn không làm mất đi cái hoang sơ cảnh vật vì
con người xuất hiện thật nhỏ bé, ít ỏi,
xa vời.
Cách sử dụng từ láy để
miêu tả cảnh vật có giá trị gợi hình gợi cảm, mang lại cho người đọc cảm
giác quạnh hiu; phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ
trầm bổng du dương.
3. “Nhớ nước đau lòng con
cuốc cuốc / Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
Từ những cảm nhận bằng thị
giác, nhà thơ đã cảm nhận khung cảnh chiều qua Đèo Ngang qua những thanh âm: tiếng
chim cuốc và chim đa đa gọi bầy lúc hoàng hôn.
Phép đối và đảo ngữ vận
dụng rất tài tình kết hợp với biện pháp nhân hóa qua điệp âm “cuốc cuốc” và “gia
gia” tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc lòng lữ khách. Nghe tiếng chim rừng mà
“nhớ nước đau lòng” và “thương nhà mỏi miệng” thì quả là nỗi buồn thấm sâu vào lòng
người, lan toả trong không gian mênh mông.
Nỗi “nhớ nhà” của người lữ khách thì khá dễ hiểu bởi tác giả đang xa
nhà nên nhớ nhà, nhớ làng Nghi Tàm thân thuộc.
Còn tại sao lại “nhớ nước” trong khi đang sống trong
khung cảnh thanh bình? Có lẽ đó là sự hoài niệm về triều Lê - một triều đại đã
qua – câu thơ mang theo niềm hoài cỗ thường thấy trong thơ bà Huyện Thanh Quan.
Ở đây có kiểu chơi chữ
đồng âm: từ âm vang tiếng chim cuốc mà gợi nhớ tích xưa: Chuyện kể vua Đỗ Vũ
nước Thục, yêu say đắm bà Biết Linh đến đắm say mất cảnh giác nên mất ngôi vua.
Đỗ Vũ phải trốn vào rừng, thương tiếc một sự nghiệp của thời vàng son, chết hoá
thành con chim Đỗ Vũ (Đỗ Quyên), có người cho rằng mùa hè chim cuốc kêu nguyên
đêm, sáng ra khan cổ, máu chảy miệng rồi chết. Trong Truyện Kiều có câu
"Ấy hồn Thục đế hay là Đỗ Quyên" là từ tích này.
Cái hay của câu thơ là lấy
cái động để làm nổi bật cái yên tĩnh vắng lặng trong khoảnh khắc hoàng hôn theo
thi pháp “lấy động tả tĩnh” truyền thống trong thơ văn cổ. Âm thanh đó chính là
tiếng lòng của nhà thơ.
4. “Dừng chân đứng lại trời non nước / Một mảnh tình riêng ta với
ta”
Bốn chữ “dừng chân đứng lại” thể hiện một nỗi
niềm xúc động đến bồn chồn trong bước chân lữ khách; “trời non nước” thể hiện cái cảm nhận từ không gian mênh mang ở
nhiều phía: xa, gần, cao, sâu mà lại trống trải, thiếu vắng đi hơi ấm con người;
rồi “một mảnh tình riêng” như lắng
đọng lòng người; giữa cái bao la, mênh mông, vô hạn của vũ trụ; chỉ còn “ta với ta” trong nỗi cô đơn xa vắng,
nhớ thương đến tận cùng.
“Ta với ta” tức là chỉ có một mình tác giả, hay đó chính là tiếng
lòng của nhà thơ. Cụm từ "ta với
ta" đối lập với "trời - non
- nước" bởi một bên là cái trùng điệp của thiên nhiên, một bên là cái
cô đơn của "mảnh tình riêng" không người chia sẻ khiến tác giả cảm
thấy mình vô cùng lẻ loi nên quay về với chính tâm tư của mình, đối diện với chính
mình, cô đơn đến tuyệt đối.
Từ chỗ hướng ngoại, ý thơ
chuyển sang hướng nội trong mối quan hệ thiên nhiên với con người tuy nhìn có
vẻ như đối lập nhau nhưng bên trong là sự cộng hưởng càng làm nổi bật tâm trạng
cô đơn, và nỗi niềm của tác giả.
“Qua Đèo Ngang” là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật trữ tình
đặc sắc; ngôn từ mộc mạc, bình dân mà trang nhã điêu luyện; bút pháp “tả cảnh ngụ tình” đặc sắc.
Thiên nhiên hoang vắng, cảnh
sắc hữu tình thấm một nỗi buồn man mác như hiển hiện qua từng dòng thơ. Cảm
hứng thiên nhiên trữ tình chan hoà với tình yêu quê hương đất nước và nỗi lòng
con người đã khiến cho bài thơ trở thành khúc tâm tình còn lại mãi như con đèo
nối giữa hai miền đất: “Lòng về Hà Tỉnh
dạ ái ân Quảng Bình”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét