Mộc Nhân
(Bài thơ "Quê hương" của Tế
Hanh)
Tế Hanh tên thật là Trần Tế Hanh,
sinh ngày 20-6-1921 tại thôn Đông Yên, xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh
Quảng Ngãi.
Làng quê của Tế Hanh là một vùng
sông nước nằm ven bờ hạ lưu sông Trà Bồng, con sông đã "tắm mát” đời ông.
Đây cũng chính là nơi tạo nên nguồn cảm hứng để ông sáng tác những bài thơ nổi
tiếng về sông nước quê hương như: Quê
hương, Nhớ con sông quê hương ...
Hoài Thanh - Hoài Chân trong “Thi nhân Việt Nam” viết: "Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới
rất gần gũi thường ta chỉ thấy một cách mờ mờ, cái thế giới những tình cảm ta
đã âm thầm trao cho cảnh vật...". Hay nói cách khác cái tình quê da
diết của Tế Hanh đã làm nên "mảnh
hồn làng" trong bài thơ "Quê
hương". Bài thơ đã được viết bằng tất cả tấm lòng yêu mến quê hương,
yêu thiên nhiên thơ mộng, yêu mến những con người lao động cần cù.
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông
Tế
Hanh giới thiệu về quê hương mình bằng những câu thơ chân mộc, hồn nhiên vậy
mà, khi đọc lên không ai lại không cảm thấy nao lòng khi nghĩ về làng quê của
mình với hình ảnh một "con sông quê hương" cuồn cuộn chảy trong tâm
thức thi nhân với biết bao hồi ức chất đầy nỗi nhớ thương cồn cào, se thắt:
Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre.
Và con sông quê đó
đã dẫn người dân chài ra biển lớn:
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Buổi bình minh thật đẹp, có những chàng trai cường tráng,
khỏe mạnh "bơi thuyền đi đánh cá". Khung cảnh làng quê như
đang mở ra trước mắt chúng ta trong thời khắc tươi đẹp của buổi sớm mai hồng, không gian rộng mở, thanh
thoát: “trời trong – gió nhẹ”. Tất cả
như báo hiệu cho ngày mới bắt đầu với bao nhiêu hi vọng. Một ngày mới với tinh thần hăng hái, phấn
chấn của biết bao nhiêu con người trên những chiếc thuyền ra khơi bình yên hứa
hẹn những mẻ lưới bội thu.
Chiếc thuyền nhẹ
hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Nếu như những câu trên miêu tả cảnh vật thì hai câu thơ này
đặc tả bức tranh đầy hứng khởi và dạt dào sức sống của con người trong buổi ra
khơi. Câu thơ khiến ta
hình dung những thân hình vạm vỡ, mạnh mẽ đang cùng chiếc thuyền lướt nhanh ra
biển. Tất cả như tiềm tàng sức sống
mãnh liệt của làng chài nhỏ bé của nhà thơ. Chiếc
thuyền được so sánh với “con tuấn mã”
bỗng trở nên đẹp lạ lùng, mạnh mẽ hơn, thể hiện niềm vui và phấn khởi của những
người dân chài. Những động từ “hăng”, “phăng”,
“vượt” diễn tả đầy ấn tượng khí thế băng tới vô cùng dũng mãnh của con
thuyền toát lên một sức sống tràn đầy nhiệt huyết, lướt nhẹ tênh trên ngọn sóng bạc đầu thẳng
tiến trùng khơi, đầy khí thế. Mái chèo “phăng”
xuống nước vừa nhịp nhàng vừa mạnh mẽ là động tác của các chàng trai đang hăm hở đi
chinh phục biển cả.
Có
thể nói đây là một chuyến ra khơi đầy hào hứng. Những câu thơ miêu tả trực tiếp
cảnh dân làng đi đánh cá vừa thực vừa lãng mạn giúp người đọc hình dung được
hình ảnh đoàn thuyền khá sinh động. Đặc biệt là cánh buồm trong tư thế hùng
tráng:
Cánh buồm giương to
như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao
la thâu góp gió…
Từ
hình ảnh của thiên nhiên, tác giả đã liên tưởng đến hồn người, phải là một tâm
hồn nhạy cảm trước cảnh vật, một tấm lòng gắn bó với quê hương làng xóm Tế Hanh
mới có thể viết được như vậy. Cánh buồm trắng vốn là hình ảnh quen thuộc nay
trở nên lớn lao trước thiên nhiên. Cánh buồm trắng thâu gió vượt biển khơi như
hồn người đang hướng tới tương lai tốt đẹp. Có lẽ nhà thơ chợt nhận ra rằng
linh hồn của quê hương đang nằm trong cánh buồm. Hình ảnh thơ vừa thơ mộng vừa
hiện thực đã vẽ nên chính xác hình thể vừa gợi được linh hồn của sự vật.
"Mảnh hồn làng" trong thơ Tế Hanh bình dị và trong trẻo đến lạ lùng. Chẳng phải
là những hình tượng thơ hoành tráng, lớn lao mà giản dị, lặng lẽ, khiêm nhường
như chính cái hồn thơ đôn hậu, tinh tế, trong trẻo của ông. "Mảnh hồn làng" ấy đã ăn sâu
trong tâm thức của thi nhân để trở thành một thứ tâm cảm, một thứ tâm linh dào
dạt và sâu lắng, tha thiết mà ngọt ngào để rồi sau này dù sống dằn dặt xa quê
nhưng vẫn luôn cháy bỏng khát khao:
Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
(Vườn xưa)
Nếu cảnh ra khơi hăng hái khí thế
thì cảnh trở về với niềm vui ấm áp tình người. Trên bến đỗ, người dân đón ghe
về như ngày hội bởi lẽ sau một ngày ra khơi xa, họ mong trở về bình yên đoàn tụ.
Cả đoạn thơ là khung cảnh quê hương và dân chài trở về sau
một chuyến ra khơi, thể hiện được một
nhịp sống hối hả của những con người năng động trong là sự phấn khởi với bao
kết quả tốt đẹp:
Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe vềNhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Những
tính từ “ồn ào”, “tấp nập” toát lên
không khí đông vui, hối hả đầy sôi động của cánh buồm đón ghe cá trở về. Người
đọc như thực sự được sống trong không khí ấy, được nghe lời cảm tạ chân thành
đất trời đã sóng yên, biển lặng để người dân chài trở về an toàn và cá đầy ghe,
được nhìn thấy “những con cá tươi ngon
thân bạc trắng”. Tế Hanh không miêu tả công việc đánh bắt cá như thế nào
nhưng ta có thể tưởng tượng được đó là những giờ phút lao động không mệt mỏi để
đạt được thành quả như mong đợi.
Một khung cảnh thật
náo nức thanh bình, mang dáng vẻ ấm no đang bao phủ khắp làng, thẳm sâu trong
tâm khảm người dân là lòng biết ơn thiêng liêng, mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc:
“Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe”.
Sau chuyến ra khơi
là hình ảnh con thuyền và con người trở về trong ngơi nghỉ:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về năm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Dường như trong niềm
vui thu hoạch “cá đầy ghe” ấy, đây mới là lúc ta được dịp ngắm nhìn
những người đánh cá vừa mới trở về. Họ hiện ra trong dáng vẻ vạm vỡ, từng trãi
“làn da ngăm rám
nắng/ Cả thân hình nồng thở vị xa xăm”.
Câu
thơ thật đẹp, vừa lãng mạn vừa tả thực, hình ảnh “làn da ngắm rám nắng” hiện lên để lại dấu ấn vô cùng đẹp đẽ. Những
người đánh cá như mang theo hơi thở, mùi vị của biển cả. Họ chính là những sinh
thể của đại dương, họ là những đứa con của biển. Câu thơ có tầm vóc đó cho thấy
cách cảm nhận tài hoa, khỏe khoắn của tác giả.
Với con người là vậy, còn với những con thuyền thì sao? Chúng cũng được
nhân hóa như một sinh thể sống động “nằm” yên lặng như thể đang nghỉ ngơi, thư giãn
sau một ngày vật lộn với sóng gió. Cụm từ “im bến mỏi” là một sự kết hợp thật
đẹp, cô đúc tối đa mà lại rất gợi. Có thể nói câu thơ đã chỉ ra được trạng thái
thư giãn, hài lòng với chuyến ra khơi vừa qua của con thuyền. Cho nên, con
thuyền mới “nghe", mới cảm nhận vị muối
của biển như tỏa lan trong từng thớ gỗ. Con thuyền trở nên có hồn hơn,
nó không còn là một vật vô tri vô giác nữa mà đã trở thành người bạn của ngư
dân. Hai câu thơ vừa đẹp trong cách hình dung, vừa thấy được vẻ
yên lặng thanh bình, vừa như gặp đâu đây những thư thái mãn nguyện.
Có thể nói rằng đây
chính là những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của bài thơ mang theo cái cả linh
hồn và tầm vóc của con người biển cả.
Tế Hanh đã tinh tế đưa vào thơ của mình hình ảnh sinh hoạt
trong cuộc sống của quê hương: Cảnh tấp nập ghe thuyền cá đầy khoang trên bến
đỗ, những con thuyền như tuấn mã căng cánh buồm vôi trắng bạc lộng gió trên
biển xanh mênh mông như mảnh hồn làng của ngư phủ giữa sóng nước đại dương.
Hình ảnh những con thuyền nằm im bến mỏi sau chuyến ra khơi… Và, cả cái mùi
nồng mặn quá của một làng chài. Chính vì vậy, thơ Tế Hanh gần gũi, quen thân
với người yêu thơ.
Không
phải người con làng chài thì không thể viết hay như thế, tinh như thế, và cũng
chỉ viết được những câu thơ như vậy khi tâm hồn Tế Hanh hoà vào cảnh vật cả hồn
mình để lắng nghe.
Có
lẽ, chất mặn mòi kia cũng đã thấm sâu vào da thịt nhà thơ, vào tâm hồn nhà thơ
để trở thành nỗi niềm ám ảnh gợi bâng khuâng kì diệu. Nét tinh tế, tài hoa của
Tế Hanh là ông “nghe thấy cả những điều không hình sắc, không âm thanh như
“mảnh hồn làng” trên “cánh buồm giương”…
Hồn
quê trong thơ Tế Hanh chính là kết tinh của "mảnh
hồn làng" và đó là cái làm nên giá trị của thơ ông. Nó đã ôm ấp không
chỉ sông biển quê hương, con đường quê với những ngày nghỉ
học, những vườn xưa lối cũ và cả hình ảnh của những con người
dân quê lam lũ "Sớm khuya chài lưới bên sông / Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài
đồng"...
Nói
lên tiếng nói từ tận đáy lòng mình là lúc nhà thơ bày tỏ tình cảm của một người
con xa quê hướng về quê hương, về đất nước :
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá
Nhà
thơ đang xa quê nhưng vẫn hình dung được một khung cảnh sống động của làng quê
như đang ở trước mắt. Ta có thể nhận ra rằng quê hương luôn nằm trong tiềm thức
nhà thơ, quê hương luôn hiện hình trong từng suy nghĩ, từng dòng cảm xúc. Nỗi
nhớ quê hương thiết tha bật ra thành những lời nói vô cùng giản dị: “Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá”.
Nghĩ
đến quê hương là nhà thơ nhớ đến ngay cái mùi vị "nồng mặn" của quê
hương, cái mùi vị ấy được gợi ra từ "nước
xanh, cá bạc, cánh buồm vôi".
Tất
cả làm nên vẻ đẹp của quê hương làng chài. Cái “mảnh hồn làng” của quê hương nhà thơ vừa có cái chung vừa không
lẫn với bất cứ làng quê nào khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét