1/1/18

1.044. NGÔN TỪ - JEAN PAUL SARTRE

Mộc Nhân (đọc tác phẩm "Ngôn Từ" của Jean-Paul Sartre)

"Văn hóa chẳng cứu vớt được gì cũng chẳng cứu vớt được ai, nó không bào chữa được. Nhưng đó là một sản phẩm của con người: con người tự chiếu mình vào đó, nhận ra mình trong đó; duy nhất chỉ có nó, tấm gương phê phán ấy cho con người thấy hình ảnh của mình.” – Trích "Ngôn từ", Jean-Paul Sartre.

Jean-Paul Sartre sinh ngày 21/6/1905 tại Paris, Pháp. Cha ông là sĩ quan hải quân Pháp, đã qua đời năm ông mới lên 2 tuổi. Sớm mồ côi cha, bị bạn bè xa lánh, Sartre ít nói và sống nội tâm.
Sau khi tốt nghiệp École normale supérieure, Jean-Paul Sartre (1905-1980) lấy bằng thạc sĩ triết học vào năm 1929. Đây cũng chính là thời kỳ ông quen Simone de Beauvoir – triết gia, nhà văn nổi tiếng nước Pháp, người đã nhìn thấy ở Sartre một “bản sao đáp lại những mơ ước của mình thời niên thiếu” nhưng nhanh chóng thừa nhận bản sao này hơn mình cả cái đầu, người đã không chịu hy sinh dù một mẩu tự do của bản thân để chấp nhận lời cầu hôn của Sartre nhưng lại bất chấp mọi sóng gió, dan díu, ghen tuông và can gián bạn bè để đi với Sartre đến tận những ngày cuối đời ông.
Trở về từ Thế Chiến II, Sartre từ bỏ con người cá nhân chủ nghĩa mà ông từng là vào những năm 1930s. Trong chiến tranh, ông viết tiểu luận đầu tay sau này trở thành tác phẩm quan trọng nhất của ông và cũng là tác phẩm trọn vẹn nhất về triết học hiện sinh, Tồn tại và hư vô, trong đó, ông tái tạo bản thể học và siêu hình học dựa trên những nghiên cứu về hiện tượng học của Husserl và triết học của Heidegger.
Những năm sau giải phóng, Jean-Paul Sartre trở thành cái tên nổi tiếng khắp giới trí thức Pháp, ông được coi như thủ lĩnh của phong trào hiện sinh đang là “mốt” lúc bấy giờ. Trong tạp chí Les temps modernes mà ông sáng lập năm 1945, ông đề cao sự dấn thân như một “mục đích tự thân”.
Ông lao vào đọc rất nhiều sách và học viết văn từ nhỏ. Nhưng phải đến giữa những năm 1930, Sartre bắt đầu chính thức sự nghiệp viết văn. Tiểu thuyết Buồn nôn, xuất bản năm 1938 nổi tiếng vang xa ra ngoài nước Pháp. Sau đó là liên tiếp các tác phẩm mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh, đưa Sartre lên thành một trong những nhà văn hàng đầu thế giới.
Ngôn từ ra mắt độc giả cuối năm 1963, được in thành hai kỳ trong số tháng 10 và tháng 11 của tạp chí Les Temps modernes, sau đó được in thành sách vào đầu năm 1964. Ngay sau khi ra mắt “Ngôn từ” không lâu, Sartre được trao giải Nobel văn học nhưng ông đã từ chối bởi cho rằng sự tôn vinh sẽ làm hạn chế tư duy độc lập và khiến ông trở nên gò bó trong những sáng tác; ông cho rằng: “Con người ta chỉ xứng đáng được vinh danh khi đã qua đời, cũng giống như một cuốn sách chỉ có thể được người đọc đánh giá khi đã gập lại trang cuối” và điều đó cũng có nghĩa là vinh quang đến cùng với sự chấm dứt: vinh quang đồng nghĩa với cái chết. Trong lịch sử hơn 100 năm của giải Nobel Văn chương, Jean-Paul Sartre là người đầu tiên khước từ giải thưởng danh giá.
Ngôn từ chỉ khoảng hơn 200 trang, nội dung chủ yếu viết về 12 năm đầu đời của tác giả, từ năm 1905 đến 1917. Với ông, đó không phải là một tuổi thơ quá dữ dội, cái chết của cha “đã trao tự do cho cậu con trai”, hay cuộc đại chiến thế giới khốc liệt thì hầu như chẳng ảnh hưởng gì đến cuộc sống thường nhật của Poulou ngoài việc khiến cậu bé "buồn chán" vì không được tiếp tục xem những tạp chí truyện tranh yêu thích phát hành trước chiến tranh.
“Ngôn Từ” là một tự truyện không có những hoài niệm, dẫu ngậm ngùi cay đắng hay cảm động ngọt ngào. Sartre không hoài niệm, ông mổ xẻ, phân tích, giải mã tuổi thơ của mình bằng con mắt sắc sảo, tỉnh táo và đầy trải nghiệm của một nhà văn đứng tuổi, đứng tách hẳn khỏi cậu bé "ngông cuồng" là chính mình ngày xưa - để đi tìm câu trả lời cho một câu hỏi lớn: Điều gì đã thúc đẩy ông đến với nghiệp văn chương? Sự phân tích, đánh giá rất “lạnh lùng” ấy đã đem lại sắc thái đặc biệt cho NGÔN TỪ: một giọng điệu nổi bật là hài hước, mỉa mai, chế nhạo (chủ yếu là tự chế nhạo), xen lẫn với những suy tư triết học vừa chặt chẽ logic vừa phức tạp rắm rối nhưng đầy cuốn hút, câu chuyện về tuổi thơ của Sartre trở nên giống một tác phẩm châm biếm, một tiểu thuyết triết lý, hơn là một tự truyện.
Trong Ngôn từ, Sartre muốn giã biệt một thứ văn học nhất địnhthứ văn học mà ông cho là một bộ phận của văn hóa trưởng giả, viết bằng ngôn ngữ của giới trưởng giả. Ông cho rằng “Nhà văn buộc phải đứng về phe đông đảo nhất, phe của hai tỷ người nghèo đói…nếu không, y chỉ là người làm mướn cho giai cấp tư sản và cũng bóc lột như giai cấp này”.
Ở phần cuối tác phẩm, ông đã gọi những hoạt động văn học trước đây của mình là “một căn bệnh điên rồ lâu dài, cay đắng và dịu ngọt” mà ông cho rằng mình đã may mắn chữa khỏi. “Tôi đề nghị mọi người hãy coi cuốn sách này đúng như nó là: một công việc giải ngộ" - Sartre đã khẳng định rõ ràng như vậy trong lời tựa ngắn ông viết cuối năm 1964 cho bản dịch tiếng Nga.
Tạp chí Le magazine littéraire đánh giá: “Với Ngôn từ, Sartre đã kết hợp thành công tiểu thuyết với tự truyện và khiến tác phẩm trở thành một trong những cuốn sách khó đọc bán chạy nhất thế giới.”
Báo La Croix: “Ngôn từ được viết bằng một văn phong sắc sảo, châm biếm, chính xác và không có lấy một chút thống thiết giả tạo.”
Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên cho rằng: “Với Ngôn từ, ngoài việc giúp ta hiểu rõ thêm về cuộc đời của ông còn giúp ta hiểu được sự hình thành của một nhà văn. Với giọng điệu hài hước, chế nhạo xen lẫn suy tư triết học vừa logic vừa phức tạp nhưng đầy cuốn hút, câu chuyện về tuổi thơ của Sartre giống một tác phẩm châm biếm, một tiểu thuyết triết lý, hơn là một tự truyện."
Tiến sĩ Phùng Ngọc Kiên đánh giá cuốn sách là “một thứ văn chương uyên áo, mạch logic chặt chẽ, dí dỏm. Bởi sự va đập văn hóa nên tác phẩm của ông xuất hiện tại Việt Nam thời điểm này là thích hợp”.
(Tham khảo tư liệu từ nhiều nguồn)

Không có nhận xét nào: