Mộc Nhân (đọc tác phẩm "Ngôn Từ" của Jean-Paul Sartre)
"Văn hóa chẳng cứu vớt được gì
cũng chẳng cứu vớt được ai, nó không bào chữa được. Nhưng đó là một sản phẩm
của con người: con người tự chiếu mình vào đó, nhận ra mình trong đó; duy nhất
chỉ có nó, tấm gương phê phán ấy cho con người thấy hình ảnh của mình.” – Trích "Ngôn
từ", Jean-Paul Sartre.
Jean-Paul Sartre sinh ngày 21/6/1905 tại
Paris, Pháp. Cha ông là sĩ quan hải quân Pháp, đã qua đời năm ông mới lên
2 tuổi. Sớm mồ côi cha, bị bạn bè xa lánh, Sartre ít nói và sống nội
tâm.
Sau khi tốt nghiệp École normale
supérieure, Jean-Paul Sartre (1905-1980) lấy bằng thạc sĩ triết học vào năm
1929. Đây cũng chính là thời kỳ ông quen Simone de Beauvoir – triết gia, nhà
văn nổi tiếng nước Pháp, người đã nhìn thấy ở Sartre một “bản sao đáp lại những
mơ ước của mình thời niên thiếu” nhưng nhanh chóng thừa nhận bản sao này hơn
mình cả cái đầu, người đã không chịu hy sinh dù một mẩu tự do của bản thân để
chấp nhận lời cầu hôn của Sartre nhưng lại bất chấp mọi sóng gió, dan díu, ghen
tuông và can gián bạn bè để đi với Sartre đến tận những ngày cuối đời ông.
Trở về từ Thế
Chiến II, Sartre từ bỏ con người cá nhân chủ nghĩa mà ông từng là vào những năm
1930s. Trong chiến tranh, ông viết tiểu luận đầu tay sau này trở thành tác phẩm
quan trọng nhất của ông và cũng là tác phẩm trọn vẹn nhất về triết học hiện
sinh, Tồn tại và hư vô, trong đó, ông tái tạo bản thể học và siêu hình học dựa
trên những nghiên cứu về hiện tượng học của Husserl và triết học của Heidegger.
Những năm sau
giải phóng, Jean-Paul Sartre trở thành cái tên nổi tiếng khắp giới trí thức
Pháp, ông được coi như thủ lĩnh của phong trào hiện sinh đang là “mốt” lúc bấy
giờ. Trong tạp chí Les temps modernes mà ông sáng lập năm 1945, ông đề cao sự
dấn thân như một “mục đích tự thân”.
Ông lao
vào đọc rất nhiều sách và học viết văn từ nhỏ. Nhưng phải đến giữa
những năm 1930, Sartre bắt đầu chính thức sự nghiệp viết văn. Tiểu
thuyết Buồn nôn, xuất bản năm 1938 nổi tiếng vang xa ra
ngoài nước Pháp. Sau đó là liên tiếp các tác phẩm mang đậm dấu ấn
của chủ nghĩa hiện sinh, đưa Sartre lên thành một trong những nhà văn
hàng đầu thế giới.
Ngôn từ ra
mắt độc giả cuối năm 1963, được in thành hai kỳ trong số tháng 10 và tháng 11
của tạp chí Les Temps modernes, sau đó được in thành sách vào đầu
năm 1964. Ngay sau khi ra mắt “Ngôn từ” không lâu, Sartre được trao
giải Nobel văn học nhưng ông đã từ chối bởi cho rằng sự tôn vinh sẽ làm hạn chế
tư duy độc lập và khiến ông trở nên gò bó trong những sáng tác; ông cho rằng: “Con
người ta chỉ xứng đáng được vinh danh khi đã qua đời, cũng giống như một cuốn
sách chỉ có thể được người đọc đánh giá khi đã gập lại trang cuối” và điều đó
cũng có nghĩa là vinh quang đến cùng với sự chấm dứt: vinh quang đồng nghĩa với
cái chết. Trong lịch sử hơn 100 năm của giải Nobel Văn chương, Jean-Paul Sartre
là người đầu tiên khước từ giải thưởng danh giá.
Ngôn từ chỉ
khoảng hơn 200 trang, nội dung chủ yếu viết về 12 năm đầu đời của tác giả, từ
năm 1905 đến 1917. Với ông, đó không phải là một tuổi thơ quá dữ dội, cái chết
của cha “đã trao tự do cho cậu con trai”, hay cuộc đại chiến thế giới khốc liệt
thì hầu như chẳng ảnh hưởng gì đến cuộc sống thường nhật của Poulou ngoài việc
khiến cậu bé "buồn chán" vì không được tiếp tục xem những tạp chí
truyện tranh yêu thích phát hành trước chiến tranh.
“Ngôn Từ” là một tự truyện không có
những hoài niệm, dẫu ngậm ngùi cay đắng hay cảm động ngọt ngào. Sartre không
hoài niệm, ông mổ xẻ, phân tích, giải mã tuổi thơ của mình bằng con mắt sắc
sảo, tỉnh táo và đầy trải nghiệm của một nhà văn đứng tuổi, đứng tách hẳn khỏi
cậu bé "ngông cuồng" là chính mình ngày xưa - để đi tìm câu trả lời
cho một câu hỏi lớn: Điều gì đã thúc đẩy ông đến với nghiệp văn chương? Sự phân
tích, đánh giá rất “lạnh lùng” ấy đã đem lại sắc thái đặc biệt cho NGÔN TỪ: một
giọng điệu nổi bật là hài hước, mỉa mai, chế nhạo (chủ yếu là tự chế nhạo), xen
lẫn với những suy tư triết học vừa chặt chẽ logic vừa phức tạp rắm rối nhưng
đầy cuốn hút, câu chuyện về tuổi thơ của Sartre trở nên giống một tác phẩm châm
biếm, một tiểu thuyết triết lý, hơn là một tự truyện.
Trong Ngôn
từ, Sartre muốn giã biệt một thứ văn học nhất định, thứ văn học
mà ông cho là một bộ phận của văn hóa trưởng giả, viết bằng ngôn ngữ của giới
trưởng giả. Ông cho rằng “Nhà văn buộc phải đứng về phe đông đảo nhất, phe của
hai tỷ người nghèo đói…nếu không, y chỉ là người làm mướn cho giai cấp tư sản
và cũng bóc lột như giai cấp này”.
Ở phần
cuối tác phẩm, ông đã gọi những hoạt động văn học trước đây của mình là “một
căn bệnh điên rồ lâu dài, cay đắng và dịu ngọt” mà ông cho rằng mình đã may mắn
chữa khỏi. “Tôi đề nghị mọi người hãy coi cuốn sách này đúng như nó là: một
công việc giải ngộ" - Sartre đã khẳng định rõ ràng như vậy trong lời tựa
ngắn ông viết cuối năm 1964 cho bản dịch tiếng Nga.
Tạp chí Le magazine littéraire đánh giá:
“Với Ngôn từ, Sartre đã kết hợp thành công tiểu thuyết với tự truyện và khiến
tác phẩm trở thành một trong những cuốn sách khó đọc bán chạy nhất thế giới.”
Báo La Croix: “Ngôn từ được viết bằng
một văn phong sắc sảo, châm biếm, chính xác và không có lấy một chút thống
thiết giả tạo.”
Nhà phê
bình văn học Phạm Xuân Nguyên cho rằng: “Với Ngôn từ, ngoài việc giúp ta hiểu
rõ thêm về cuộc đời của ông còn giúp ta hiểu được sự hình thành của một nhà
văn. Với giọng điệu hài hước, chế nhạo xen lẫn suy tư triết học vừa logic vừa
phức tạp nhưng đầy cuốn hút, câu chuyện về tuổi thơ của Sartre giống một tác
phẩm châm biếm, một tiểu thuyết triết lý, hơn là một tự truyện."
Tiến sĩ
Phùng Ngọc Kiên đánh giá cuốn sách là “một thứ văn chương uyên áo, mạch logic
chặt chẽ, dí dỏm. Bởi sự va đập văn hóa nên tác phẩm của ông xuất hiện tại Việt
Nam thời điểm này là thích hợp”.
(Tham khảo tư liệu từ nhiều nguồn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét