Phạm Quỳnh (nguồn: f.b. Nguyễn Xuân Diện)
Nhân loại gồm nhiều người chết hơn là
người sống - Auguste Comte đã nói ở đâu đó như thế. Ở nước Nam, câu nói ấy của
nhà triết học thực chứng Pháp càng đúng hơn ở bất cứ nơi nào khác. Quả vậy,
việc thờ cúng tổ tiên có một vị trí quan trọng trong đời sống gia đình và xã
hội của chúng ta. Nó đã trở thành một thứ giáo lý tôn giáo, và, theo một nghĩa
nào đó, một tôn giáo quốc gia thực thụ. Nếu tôn giáo, đúng như ý nghĩa từ
nguyên của nó đã chỉ rõ, là mối liên kết tinh thần nối liền con người với
những lực lượng siêu cảm, việc thờ cúng hay tôn giáo về những người đã chết là
cách biểu hiện những mối quan hệ giữa thế giới những người đang sống với thế
giới những người đã chết.
Các mối quan hệ ấy rất nhiều và liên tục. Những người
chết thường xuyên can dự vào cuộc sống của những người đang sống; họ hướng dẫn,
chỉ đạo, che chở cho chúng ta, bảo hộ chúng ta, gợi hứng cho những ý tưởng và
hành vi của chúng ta, có thể nói nhìn theo chúng ta, bằng những đôi mắt có thể
xuyên suốt bóng tối của sự sống và sự chết và rất có thể chính bằng những đôi
mắt ấy mà nhân loại có được một hình dung thoáng chốc nào đấy về tương lai và
số phận của mình; tóm lại họ sống trong ký ức của chúng ta, trong mọi công việc
của chúng ta, trong mong ước của chúng ta về một cuộc sống còn sống động hơn cả
cuộc sống trên trần thế này.
Bản chất của những mối quan hệ làm nên một trong những hình
thức sống động nhất trong tôn giáo của người nước Nam đó là gì? Tôn giáo về
những người chết ấy dựa trên những nền tảng tín ngưỡng nào? Các biểu hiện nghi
thức và thực hành của nó ra sao? Từ đó có thể nhận ra những bài học luân lý và
triết học gì?
Khổng Tử, vốn là cả Socrate, Solon hay Lycurge cộng lại của
Phương Đông, thường nói về các thần linh và các linh hồn. Quả là trong Luận Ngữ
khi nói với các học trò của mình, đôi khi ông đã từ chối giải thích về bản chất
của những điều ấy; ta đã biết câu trả lời của ông cho một học trò hỏi ông về
vấn đề này: “Phục vụ người sống ngươi còn chưa biết cách, thì ta dạy ngươi cách
phục vụ người chết làm gì?” – Nhưng chúng ta cũng lại biết rằng về chuyện này,
ông luôn trung thành với các tín ngưỡng của Trung Hoa cổ đại, mà đặc biệt tác
phẩm Kinh Lễ còn giữ lại cho chúng ta nhiều dấu vết. Theo các tín ngưỡng đó,
con người có một cái phách và một cái hồn. Khi chết, phách tan hủy cùng với thể
xác, còn hồn thì tách ra; nó bay lượn trong khoảng không và sống một cuộc sống
độc lập, thuần khiết, bay bổng. Đấy là cuộc sống của các linh hồn, của các vong
hồn hay các bậc tổ tiên đã quá cố. Như vậy họ không chết đi hoàn toàn: họ tiếp
tục sống một đời sống siêu nhiên, tinh thần. Nhưng cuộc sống chừng có thể nhạt
nhòa đi, tan biến mất trong cõi vô cùng đó, được làm cho trở nên hiện thực hơn,
đầy hiệu lực hơn, có thể nói như vậy, bằng ký ức mà những người còn sống lưu
giữ về họ, bằng việc thờ cúng mà những người sống có bổn phận phải làm tròn đối
với họ. Như vậy đấy những người đã chết vẫn còn tham dự mãi vào cuộc sống của
gia đình mình, con cháu mình. Người ta lại nhắc đến họ trong mọi dịp long trọng,
như khi có người mới ra đời, trong dịp cưới xin, v.v…
Kinh Lễ viết: “Ba tháng sau lễ cưới, người vợ trẻ được giới
thiệu với tổ tiên trước bàn thờ với lời khấn sau đây: – Đây là cô dâu mới đã
bước vào gia đình chúng ta. – Rồi đến ngày đã chọn trước, cô dâng lễ vật lên
trước bài vị tổ tiên, và từ nay cô trở thành thành viên trong gia đình chồng”.
Lời bình còn nói thêm rằng nếu cô bị chết trước lễ ra mắt và lễ dâng lễ vật ấy,
thì dù đã sống chung với chồng, cô vẫn chưa phải là vợ anh ta và thi hài cô được
trả về nhà cha mẹ.
Kinh Lễ còn viết thêm: “Trong trường hợp
một đứa con dược sinh ra khi người cha đã chết, quan tài người cha còn quàn ở
nhà, người làm lễ cúng sau khi đã gọi tên ông ta ba lần sẽ báo với ông ta: –
Một thị đã sinh ra một cậu con trai: tôi xin báo cho người được biết… Nếu người
chết đã được an táng, thì đứa trẻ sơ sinh sẽ được đưa trình báo trước bài vị
của ông ta…”.
Việc thờ cúng các linh hồn và tổ tiên đã
quá cố đã tồn tại từ thời rất xa xưa, Khổng Tử trong Luận Ngữ kể rằng vua Vũ,
một trong những vị vua đầu tiên nửa truyền thuyết nửa lịch sử của Trung Quốc
vốn rất giản dị, đã tỏ ra cực kỳ phóng khoáng khi dâng lễ vật cúng các vong
hồn. – Khổng Tử viết trong Trung Dung: “Vào mùa xuân và mùa thu, người xưa
trang trí bàn thờ tổ tiên. Họ bày các đồ đồng mà tổ tiên đã sử dụng và các quần
áo tổ tiên đã mặc. Họ dâng cúng các thức ăn và hoa trái theo mùa.”
Trên đây tôi đã nói rằng Khổng Tử tôn
trọng tôn giáo cổ xưa đó, các tín ngưỡng xưa đó của nước Trung Hoa cổ đại, lại
còn vì chúng hoàn toàn phù hợp với học thuyết của ông về sự bảo tồn xã hội cơ
sở trên việc thờ phụng quá khứ và truyền thống.
Nhưng tự ông có tin ở sự tồn tại của
linh hồn không? Ông có tin ở sự hiện diện thật sự của linh hồn trong các lễ
cúng và trong việc khấn vái không?
Qua những lời nói của ông, bao giờ cũng
rất thận trọng khi đề cập đến những chuyện siêu hình, ta có thể nghi ngờ.
Chúng ta đã thấy câu trả lời của ông với
một người học trò hỏi ông về cái chết. Sau đây là lời ông nói với một người học
trò khác hỏi ông về chữ “trí”: “Làm tròn các bổn phận của một con người; tôn
kính các thần; ấy là trí”.
Tôn kính các thần, nhưng kính nhi viễn
chi, thái độ của bậc hiền triết đối với thần thánh là như vậy.
Có thể các vong hồn và thần thánh là có
thật; cũng có thể không có thật. Duy có một điều chắc chắn là ta tôn kính họ;
hãy làm điều đó với tất cả sự thành tâm, không mê tín cũng chẳng nên cuồng tín,
như là ta thực hiện một nghi thức đạo đức và xã hội rất quan trọng.
Nghi thức ấy, quả vậy, bắt nguồn từ đức
hiếu đễ, trong hệ thống chính trị – đạo đức của Khổng Tử, vốn là nền tảng của
mọi đức hạnh, cơ sở của tế bào gia đình, và do đó cũng là của xã hội và của đế
chế.
Trong những điều kiện đó, cần phải tôn
kính những người đã chết như thế nào, và trong tất cả những người đã chết những
người gắn liền với ta nhất, tổ tiên của chúng ta?
Theo Kinh Lễ lời nói sau đây là của
Khổng Tử: “Coi người chết như là đã chết rồi thì sẽ là vô nhân. Chẳng nên làm
thế. Nhưng coi họ như những người đang sống thì sẽ là vô lý. Chẳng nên làm
thế”.
Như vậy không nên coi người chết như đã
chết rồi, có nghĩa là không chăm nom gì đến họ nữa, quên bẵng luôn đi; cũng
chẳng nên coi họ như còn sống, nghĩa là tin là họ còn sống thật. Đúng ra, họ
sống bằng ký ức của chúng ta, bằng sự sống động, tính nồng nhiệt của cái tình cảm
mà chúng ta gọi là đức hiếu đễ, biết tôn kính những người đã cho ta sự sống và
ý thức, khiến cho họ còn tồn tại mãi mãi, nuôi giữ ký ức về họ, truyền nối việc
thờ cúng mãi mãi cho con cháu chúng ta, bằng cách đó tạo cho ta cái ảo tưởng, –
một thức ảo tưởng tốt lành, – về sự nối tiếp, về tính vĩnh hằng, tóm lại về sự
bất tử, trong cuộc tồn sinh thoáng chốc, trong cõi thế gian biến ảo này.
Phải hiểu tình cảm sâu sắc của bậc hiền
triết như vậy đấy. Tôn trọng truyền thống và các nghi lễ, ông không muốn bày tỏ
rõ ràng ý kiến về vấn đề này. Tư tưởng của ông hẳn là như vậy. Đối với ông,
việc thờ cúng người chết là tôn kính ký ức về họ, cơ sở trên đức hiếu đễ và
tình cảm về sự vĩnh hằng của gia đình và nòi giống. Chính trong tinh thần đó mà
ngày nay nó còn được thực hiện trong phần lớn thế giới Phương Đông ở đấy nó là
tôn giáo chính và là tín điều thần khải hay siêu nhiên quan trọng nhất.
Việc thờ phụng này có nhiều nghi thức mà
mô tả lại ở đây sẽ chẳng có ích gì. Vả chăng ta đều biết mỗi gia đình người
nước Nam, dù giàu hay nghèo, đều có bàn thờ ông bà của mình, có thể là một ngôi
đền tráng lệ hay một cái kệ đơn giản treo bên trên một chiếc chõng. Trên đó đặt
bài vị của tất cả những người thân đã mất cho đến đời thứ năm. Những người này
là đối tượng của các lễ cúng đặc biệt vào các ngày giỗ và tất cả các ngày lễ
theo nghi thức trong năm. Những người khác, các vị tổ tiên xa hơn, được ghi tên
trên một bài vị chung và được cúng chung vào những ngày lễ theo nghi thức vốn
rất nhiều trong năm. Có hai ngày được đặc biệt dành cho những người đã mất:
ngày 3 tháng 3 (thanh minh), ngày viếng mộ; ngày lễ của những người chết này
chẳng có gì là tang tóc và diễn ra vào một trong những lúc thời tiết đẹp nhất
trong năm khi: Cỏ non xanh tận chân trời…
Ngày lễ của những người chết này, gọi là
“tẩy mộ”, thường có kèm theo một lễ hội của những người sống, bởi ý tưởng về
cái chết – và đây là điều đáng chú ý, – ở xứ sở này chẳng có gì là tang tóc: Gần
xa nô nức yến oanh/ Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân/ Ngổn ngang gò đống kéo
lên…
Ngày thứ hai dành cho những người chết,
là ngày rằm tháng 7. Đúng ra đây là một ngày lễ Phật giáo cúng các vong hồn,
tất cả những người chết mà không có người nối dõi để thờ phụng. Bởi tai họa lớn
nhất đối với một con người là biết rằng đến một ngày nào đó không còn ai thờ
cúng mình, vì không có hậu duệ, và do vậy trở thành một linh hồn lang thang mà
đức từ bi của nhà Phật dành cho một lễ cúng chung và vô danh tính.
Do vậy những người chết mà không có hậu duệ trực tiếp thuộc
giới nam để tiếp tục thờ cúng, theo luật nước Nam được phép chọn một người bà
con gần gọi là “người thừa tự”. Qua đấy ta thấy ý tưởng về việc thờ phụng trong
tâm hồn người nước Nam sâu sắc đến dường nào.
Việc thờ cúng người chết chủ yếu là thờ
cúng tổ tiên.
Khổng Tử nói rằng: “Dâng lễ vật cho
những vong hồn không phải là người thân của mình là một việc xu nịnh”. “Mỗi
người, mỗi gia đình phải dâng lễ vật cho những người thân của mình, chứ không
phải cho những người khác. Nếu có ai đó dâng lễ cúng cho những vong hồn chẳng
hề liên quan gì đến mình, thì rõ ràng là để nhận được một ân huệ mà họ chẳng có
quyền được hưởng: một sự chiếm đoạt lấy ân huệ đáng chê trách”. (Wieger).
Như vậy, về nguyên tắc, mỗi người chỉ
thờ cúng tổ tiên đã mất của mình. Nhưng có những con người trong đời mình đã
làm nhiều điều tốt cho đồng bào mình, có công ơn đối với làng xóm của mình,
tỉnh mình, đối với cả nước; có những vị vua, những vị quan đã xây dựng nên vinh
quang của quốc gia; những vị tướng lĩnh đã cứu nước khỏi ách ngoại xâm; những
nhà trí thức lớn đã đem lại vinh dự cho quốc gia do trí thông minh và tài năng
của mình; những người đàn ông hay phụ nữ đã hy sinh vì danh dự hay đức hạnh;
những người đó được quyền để cho đồng bào mình nhớ ơn và thờ phụng. Vậy nên các
làng thờ phụng họ như những vị thành hoàng của làng; các tỉnh quê hương họ, hay
cả nước lập đền thờ ở những nơi nổi tiếng để ghi nhớ công ơn họ. Đấy cũng là
một hình thức thờ cúng tổ tiên; không phải là những bậc tổ tiên riêng của ai
nữa, mà là tổ tiên chung của làng, của tỉnh thành, của quốc gia; đấy là thờ
phụng các vị thần bảo hộ của đất nước, và theo một nghĩa nào đó, đó là việc thờ
phụng những con người vĩ đại, những người anh hùng, mà Carlyle hết sức ca ngợi.
Việc thờ cúng người chết được hiểu và
được thực hiện ở nước Nam là như vậy đấy. Do tầm quan trọng to lớn của nó về
phương diện thiết chế gia đình và xã hội nước Nam, cùng những nghi thức tỉ mỉ
kèm theo, nó đã thật sự trở thành một tôn giáo, tôn giáo của gia đình và nòi
giống, tôn giáo của ký ức và lòng biết ơn. Quả thật đây là một tôn giáo hợp lý,
logic, phù hợp với lý trí và tình cảm, ít mang tính chất thần bí nhất để thỏa
mãn những tâm hồn sùng tín, và nhiều lý tính nhất để làm vừa lòng những đầu óc
duy lý. Đấy là một thứ tôn giáo đầy tính triết học và người nước Nam lấy làm
vinh dự đã thực hiện nó suốt bao thế kỷ dài.
(P.Q. viết năm 1930)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét