Nhận định về Trịnh Công Sơn, lâu nay có câu so sánh gần như mặc định: “Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của Việt Nam”. Câu so sánh này thường được cho là của Joan Baez, một nữ ca sĩ nhạc dân ca (folk singer) của Mỹ, người thành danh chủ yếu nhờ hát nhạc Bob Dylan - một huyền thoại âm nhạc người Mỹ, một biểu tượng văn hóa có tầm ảnh hưởng toàn cầu, người được tặng giải Nobel Văn học năm 2016.
Sở dĩ nói “được cho” vì câu so sánh này cũng có thể của
người khác đã nói. Cái gì gần như mặc định, thường được coi như hiển nhiên, ít
có sự trao đổi, tranh biện, phản tỉnh trở lại. Nhưng không phải bao giờ cũng vậy.
John C. Schafer, giáo sư dạy môn Ngôn ngữ học ứng dụng
và Văn học đối chiếu tại Đại học Humboldt, California, Mỹ đã viết cuốn
sách “Trịnh Công Sơn và Bob Dylan -
Như trăng và nguyệt?” được dịch và xuất bản ở Việt Nam, thông qua NXB
Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, 2012 (được in lại với nhan đề “Trịnh Công Sơn và Bob Dylan - Một đối chiếu
về tôn giáo, chiến tranh và tình yêu”, NXB Đà Nẵng, 2019) đưa ra một cái
nhìn mới mẻ, “phá vỡ” cách hiểu gần như mặc định nói trên, đi đến khẳng định rằng
so sánh “Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của Việt Nam” là không đúng.
Thật ra, không phải đợi đến khi cuốn sách “Trịnh Công Sơn và Bob Dylan - Như trăng và
nguyệt?” của John C. Schafer được dịch và xuất bản ở Việt Nam, độc giả
ở Việt Nam mới nhận ra rằng câu so sánh “Trịnh
Công Sơn là Bob Dylan của Việt Nam” là không đúng. Bùi Bảo Trúc, tác giả
bài viết “Về Trịnh Công Sơn”, trên cơ sở đánh giá sự dồi dào về lượng và
phẩm của nhạc Trịnh Công Sơn đã cho rằng sự so sánh đó vừa sai lầm, vừa bất
công cho Trịnh Công Sơn.
Bùi Bảo Trúc phân tích: “Nguyên số lượng ca khúc mà Trịnh
Công Sơn viết đã nhiều hơn số ca khúc của Bob Dylan. Mà đó mới chỉ nói về số lượng
sáng tác. Như vậy sự so sánh có bất công cho Trịnh Công Sơn. Bob Dylan viết một
số nhạc phản chiến - anti war songs - và phản kháng - protest songs - cùng một
số đề tài khác. Trịnh Công Sơn viết nhạc phản chiến, phản kháng, nhưng chủ yếu
là tình ca, những đề tài khác là quê hương, thân phận con người, trong đó, triết
lý và tôn giáo là những nét nổi bật.
Bài nổi tiếng nhất của Bob Dylan là ca khúc Blowin’ In The Wind, bài hát nói về chiến
tranh, bom đạn, chết chóc, ước mơ hòa bình được coi như bài hát đầu môi của các
phong trào phản chiến hồi thập niên 60. Nhưng Blowin’ In The Wind vẫn chưa tới được mức bi thảm như các ca
khúc: Chính chúng ta phải nói, Người
già em bé, Nước mắt cho quê hương hay Đại bác ru đêm (1), “Những chi
tiết vừa kể cho thấy đem những tên tuổi khác để so sánh với Trịnh Công Sơn là một
việc vừa sai lầm vừa bất công”(2).
Điều đáng nói, đóng góp quan trọng của John C.
Schafer, với cuốn sách “Trịnh Công Sơn và Bob Dylan - Như trăng và nguyệt?” là
người đầu tiên đã nghiên cứu công phu, có hệ thống, thông qua khảo sát, đối chiếu,
phân tích dưới nhiều góc độ về Trịnh Công Sơn và Bob Dy lan, chỉ ra những điểm
giống nhau và khác nhau giữa hai nhạc sĩ huyền thoại này, trong đó, khác nhau
là chủ yếu.
Khi cho rằng “Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của Việt
Nam”, có lẽ Joan Baez hay ai nữa nói điều này nhằm nhấn mạnh điểm giống nhau rõ
nhất giữa Trịnh Công Sơn và Bob Dylan là cả hai đều viết những bản nhạc phản
chiến nổi tiếng. Ngoài điều này ra, John C. Schafer đã đưa ra một danh sách về
những điểm giống nhau giữa Trịnh Công Sơn và Bob Dylan như sau:
Hai người này soạn nhạc, nhưng cũng được xem như là
hai nhà thơ.
Cả hai đều viết nên những lời ca mà người nghe rất
thích và được xem như là gửi gắm những sự thật quan trọng. Tuy nhiên những lời
ca này cũng rất khó giải thích.
Cả hai đều viết những bài tình ca rất cảm động.
Cả hai đều có những liên hệ tình cảm đặc biệt với các
nữ ca sĩ và các nữ ca sĩ này cũng giúp họ thành công và nổi tiếng.
Cả hai đã nói lên được ước vọng và niềm đau của một thế
hệ trẻ, những người này ngợi ca hai nghệ sĩ đã nói lên được giùm giới trẻ những
gì mà họ không thể nói lên được.
Trịnh Công Sơn và Bob Dylan thụ hưởng một sự nghiệp
lâu dài của hai nghệ sĩ vừa trình bày vừa sáng tác - hay nói cách khác, cả hai
đã giữ được địa vị danh tiếng của mình mặc dầu quê hương của họ đã trải qua bao
cuộc thăng trầm về chính trị và văn hóa.
Cả hai đã chịu ảnh hưởng và tìm nguồn cảm hứng từ hai
truyền thống tôn giáo của họ, đạo Phật với Trịnh Công Sơn và Ki-tô giáo với Bob
Dylan” (3).
Tuy hai nhạc sĩ có nhiều điểm tương đồng như vậy nhưng
John C. Schafer khẳng định “những điểm tương đồng này rất hời hợt và giản đơn
và, khi nghiên cứu kỹ, có thể nói chúng che lấp những dị biệt rất quan trọng”
(4).
Vậy “những dị biệt rất quan trọng” đó là những điểm
nào? John C. Schafer lần lượt phân tích, soi chiếu những điểm dị biệt này, dưới
các góc độ: cách phản chiến, tình yêu, nhân cách, truyền thống tôn giáo… khác
nhau của hai nhạc sĩ.
Ở điểm giống nhau dễ thấy của hai nhạc sĩ là chống chiến
tranh, John C. Schafer đã chỉ ra rằng ngay cả điểm giống nhau này cũng có thể
che lấp những khác biệt quan trọng. Cũng giống như Bùi Bảo Trúc trong bài viết “Về
Trịnh Công Sơn” đã dẫn trên, John C. Schafer đã đi sâu phân tích về số lượng
và tính chất khác nhau của nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn và Bob Dylan. Bob Dy
lan viết nhạc phản chiến, “dấn thân vào chính trị” (chữ dùng của John C.
Schafer) trong thời gian rất ngắn, chỉ có 2 năm, từ 1962 đến 1963. “Năm 1965
khi Trịnh Công Sơn đang viết những bài phản chiến nổi tiếng nhất thì Dylan đã
chuyển sang viết những bài có chủ đề cá nhân hơn là chính trị” (5).
Khác với Bob Dylan chỉ viết nhạc phản chiến trong một
thời gian ngắn, Trịnh Công Sơn liên tục viết nhạc phản chiến trong thời gian
dài, khi bom đạn chiến tranh đang tàn phá quê hương Việt Nam. John C. Schafer
đưa ra con số so sánh: Trịnh Công Sơn viết đến 69 bài nhạc phản chiến như một
nhà nghiên cứu đã đếm (dẫn theo Michiko Yoshi, người viết luận án về Trịnh Công
Sơn tại Đại học Paris, trong 136 bài hát Trịnh Công Sơn viết từ 1959 đến 1972
có 69 bài là phản chiến), còn Bob Dylan chỉ viết độ 6 hay 7 bài chống lại chiến
tranh mà thôi và không có bài nào nói về chiến tranh Việt Nam. “Như vậy hai con
số về các bài phản chiến của Dylan và của Trịnh Công Sơn rất khác nhau và tính
chất của các bài này cũng rất khác nhau. Trịnh Công Sơn luôn khuyên răn nên
tránh hận thù trong khi Dylan thì đầy rẫy hận thù trong các bài phản chiến và một
số bài khác của mình” (6).
Đối với nhạc tình của hai nhạc sĩ này, John C. Schafer
nêu rõ sự khác nhau về giọng điệu, tính chất: “Giọng điệu Trịnh Công Sơn lại có
vẻ buồn và hối tiếc, trong khi Dylan lại giận dữ, hung hăng và thách thức” (7),
“Nhiều bài tình ca của Bob Dylan chấm dứt trong giận hờn và cáo buộc. Tình ca của
Trịnh Công Sơn, trái lại, chấm dứt trong chấp nhận và buồn” (8). Phân tích về
lý do của sự khác nhau này, John C. Schafer cho rằng vì hai nhạc sĩ thuộc về
hai truyền thống văn chương và ca nhạc khác nhau: “Thi sĩ và nhạc sĩ Việt Nam
thường tìm cái ngọt ngào trong tình yêu dang dở” (9), “Không giống Trịnh Công
Sơn, Dylan xuất hiện từ một môi trường văn chương và âm nhạc ít lãng mạn hơn
(nghĩa là hiện thực hơn), ít tình cảm hơn và phản lại các lề lối cũ của xã hội
và nghệ thuật” (10).
Ngoài sự khác nhau do ảnh hưởng từ các truyền thống
văn chương và âm nhạc, theo John C. Schafer, các tác phẩm của Trịnh Công Sơn và
Bob Dylan khác nhau vì do hai người có nhân cách khác nhau, có “cái tôi” trong
tác phẩm khác nhau. Không được nhầm tưởng rằng người “nói”, tức là người xưng
ngôi thứ nhất trong các tác phẩm văn học nghệ thuật và người sáng tác ra các
tác phẩm đó là một. “Tôi” trong các bài hát của Trịnh Công Sơn không phải là Trịnh
Công Sơn. Cũng như “tôi” trong các bài hát của Bob Dylan không phải là Bob
Dylan. John C. Schafer nhận thấy rằng, văn sĩ thường mang mặt nạ (persona), họ
hóa thân vào nhiều nhân vật khác nhau trong các tác phẩm của mình để đạt được
những mục đích nghệ thuật. Tuy nhiên, John C. Schafer phỏng đoán rằng có một sự
liên lạc giữa persona của những bài hát và nhân cách của người sáng tác ra nó:
“Chúng ta sẽ thấy persona trong một bài hát tiêu biểu của Trịnh Công Sơn có vẻ
hiền từ hơn, ít giận dữ hơn và đầy tha thứ hơn persona trong một bài hát tiêu
biểu của Bob Dylan. Có thể persona của Trịnh Công Sơn dễ mến hơn persona của
Bob Dylan bởi vì Trịnh Công Sơn là một người dễ mến hơn” (11).
John C. Schafer thấy rằng hai nhạc sĩ này phản ứng rất
khác nhau khi đương đầu với những bất hạnh trong đời sống cá nhân hay trước chiến
tranh và bất công. “Trong khi Trịnh Công Sơn phản ứng bằng một thái độ đau buồn
và thương xót thì Bob Dylan phản ứng bằng một thái độ thách thức, giận dữ và
căm hờn. Hai cách phản ứng khác nhau như vậy tạo ra những bài hát với hai giọng
điệu khác nhau, gửi gắm hai thông điệp khác nhau về cách sống ở đời” (12).
Đặc biệt, cuốn sách của John C. Schafer đã dành nhiều
dung lượng (phần II và phần III) để phân tích về sự khác nhau của hai nhạc sĩ
do chịu ảnh hưởng từ hai truyền thống tôn giáo khác nhau, với Trịnh Công Sơn là
Phật giáo và với Bob Dylan là đạo Do Thái và đạo Ki-tô. John C. Schafer khẳng định
“đây là điểm quan trọng nhất và có thể cũng là nguồn gốc của những điểm khác
nhau kể trên” (13). Làm sáng tỏ điểm khác nhau “quan trọng nhất” này, John C. Schafer
phân tích sâu về ảnh hưởng của đạo Ki-tô trong các tác phẩm của Bob Dylan và ảnh
hưởng của Phật giáo trong các tác phẩm của Trịnh Công Sơn.Ảnh hưởng khác nhau
nên tư tưởng nghệ thuật khác nhau, chất nhạc khác nhau. Trong nhiều tác phẩm của
mình, Bob Dylan đã sử dụng ngôn ngữ Kinh thánh, mà John C. Schafer đã nêu là “ướt
sũng Kinh thánh”, chẳng hạn với bài “Are You Ready?” (Đã sẵn sàng
chưa?), Bob Dylanviết về “ngày phán xét cuối cùng” theo Cựu Ước: “Bạn đã sẵn
sàng chưa cho ngày tận thế?”. John C. Schafer còn lý giải rằng, Bob Dylan hay
thể hiện lòng giận dữ trong rất nhiều bài hát của ông là do ông chịu ảnh hưởng
bởi “cơn thịnh nộ của Thượng đế”: “Kinh thánh có rất nhiều câu nói về sự giận dữ
của Thượng đế… Người theo đạo Ki-tô tin rằng sự thịnh nộ của Thượng đế là “hậu
quả của sự lo lắng tối cao”” (14). Khác với Bob Dylan, Trịnh Công Sơn chịu ảnh
hưởng của Phật giáo nên “ông phản ứng trước những bất thành không phải với giận
hờn mà với tình thương” (15). Nghiên cứu về “Trịnh Công Sơn và Phật giáo”, John
C. Schafer đã đề cập về ảnh hưởng của các khái niệm cốt tủy của Phật giáo như
“nhẫn nhục và từ bi”, “tính không”, “pháp môn bất nhị” trong nhạc Trịnh Công
Sơn. Thấu tỏ nhạc Trịnh Công Sơn thấm đượm lòng từ bi, John C. Schafer đi đến một
nhận định khái quát xác đáng rằng lòng từ bi này định hình cho cái nhìn của Trịnh
Công Sơn về thế giới (“Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ” - Ru em). Dưới cái nhìn
“tính không” của Phật giáo, “sắc” và “không” không khác nhau, “con mắt còn
lại nhìn đời là không” (Con mắt còn lại), sóng và biển không khác nhau,
cho nên “biển sóng biển sóng đừng xô nhau, ta xô biển lại sóng về đâu?”
(Sóng về đâu?). “Bất nhị” tức là “không hai”, nhìn sự vật không theo lối nhị
nguyên, không phân biệt làm hai: sắc/ không, sống/ chết, buồn/ vui… Sắc tức là
không, không tức là sắc chính là cái nhìn “bất nhị”. John C. Schafer viết: “Bằng
cách chấp nhận ý niệm Bất Nhị và Vô Ngã, ta có thể làm dịu lại biên giới giữa sống
và chết... Trong nhiều bài hát của mình, Trịnh Công Sơn hình như đã cố gắng làm
mờ biên giới giữa sống và chết. Một bài nổi tiếng vào loại nhất của ông, “Một
cõi đi về” bắt đầu với:
Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về” (16)
Làm rõ thêm về ý niệm “một cõi đi về”, Trịnh Công Sơn
từng viết: “Đi về là một lộ trình quen thuộc của cuộc sống mà ai cũng phải trải
qua” (17). Vẫn với cái nhìn “bất nhị”, Trịnh Công Sơn đã thấy: “Buồn vui
kia là một” (Nguyệt ca). John C. Schafer bình luận: “Một điều khác làm cho
cái buồn của Trịnh Công Sơn quyến rũ hơn là vì nó hình như luôn đi đôi với hạnh
phúc”, “ghép liền cái vui và cái buồn đến độ không còn thấy sự khác nhau nữa
thì rất là đặc biệt nơi Trịnh Công Sơn” (18).
Khi so sánh ảnh hưởng Phật giáo trong nhạc Trịnh và ảnh
hưởng đạo Ki-tô trong nhạc Bob Dylan để chỉ ra sự khác nhau căn bản của hai nhạc
sĩ này, John C. Schafer đã có một phát hiện thú vị, sâu sắc, độc đáo là nhấn mạnh
sự khác nhau quan trọng của hai nhạc sĩ về tính chất, mức độ chịu ảnh hưởng, về
phương thức thể hiện những tín điều đã chịu ảnh hưởng sao cho nhuần nhuyễn về mặt
nghệ thuật chứ không sa vào “truyền giáo”. Về điều này, John C. Schafer đã phân
tích, làm rõ hẳn sự nổi trội độc đáo của Trịnh Công Sơn: “Mặc dầu ông không muốn
ai ghép cho ông danh nghĩa là phát ngôn viên của phái này phái nọ, nhưng Dylan
đã từng là phát ngôn viên cho đạo Ki-tô của ông. Trịnh Công Sơn, trái lại, diễn
tả nhiều ý niệm Phật giáo trong các bài hát của mình, nhưng ông không bao giờ
cho mình là phát ngôn viên của đạo Phật. Đây là một điểm khác nhau quan trọng
giữa hai người” (19), “Dylan đã truyền đạo không che đậy chút nào trong các bài
ca của ông, một điều mà Trịnh Công Sơn không bao giờ làm” (20), “Các bài của Trịnh
Công Sơn không nặng nề kinh kệ, không có bài nào công khai tôn sùng tôn giáo
như các bài trong những album có tính cách truyền giáo của Dylan” (21), “Trịnh
Công Sơn viết các bài hát của mình cho một quần chúng rộng lớn, nên ông không
đem vào đó những ngôn từ Phật giáo khó hiểu. Các bài hát của ông vì vậy đầy ắp
ý nghĩa đạo Phật, nhưng không bị đè nặng bởi những kinh kệ đạo Phật” (22). Qua
sự so sánh này của John C. Schafer đã làm nổi bật lên bản lĩnh nghệ thuật cao
cường của Trịnh Công Sơn trong tiếp nhận các nguồn ảnh hưởng: tư tưởng triết học,
tôn giáo… , tiếp nhận có chọn lọc, sáng tạo, “thoát thai hoán cốt”, phục vụ cho
mục đích cao đẹp của nghệ thuật chứ không thể hy sinh nghệ thuật cho sự “truyền
giáo” nào. Qua trường hợp sáng tạo âm nhạc của Trịnh Công Sơn càng cho thấy nghệ
thuật có thể chịu ảnh hưởng của các tư tưởng triết học, tôn giáo nhưng nghệ thuật
là nghệ thuật, nghệ thuật không phải là triết học, tôn giáo và không làm thay
nhiệm vụ của triết học, tôn giáo. Triết học, tôn giáo chỉ “làm giàu” thêm cho
nghệ thuật mà trường hợp Trịnh Công Sơn là một minh chứng sinh động, nhiệm màu.
Nhận thấy sự so sánh: “Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của
Việt Nam” là so sánh có tính chất cảm tính, bề nổi, không chính xác, là người dạy
môn Văn học đối chiếu, John C. Schafer đã làm cái việc chẳng khác gì việc của
người làm “văn học so sánh”, nghĩa là so sánh một cách khoa học, có căn cứ, có
thực chứng, có khảo sát, thống kê… để chỉ ra sự giống nhau và khác nhau giữa Trịnh
Công Sơn và Bob Dylan trong sáng tạo nghệ thuật, từ đó giúp người đọc hiểu sâu
hơn về hai nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và Bob Dylan, nhằm trả lại cho Caesar cái gì
của Caesar. Đã so sánh thì phải hướng đến hai mục đích là chỉ ra tính khái quát
và tính đặc thù của những đối tượng được so sánh, cũng có nghĩa là chỉ ra cái
chung và cái riêng, cái quốc tế và cái dân tộc (23). Sau khi đề cập về sự khác
nhau của hai nhạc sĩ, sự khác nhau của hai truyền thống tôn giáo, ở phần kết cuốn
sách, John C. Schafer hướng đến một tiếng nói chung, mang tính khái quát, vượt
lên trên sự khác biệt của hai nhạc sĩ và hai truyền thống tôn giáo. John C.
Schafer dẫn câu của Lindbeck, một nhà thần học Mỹ: “Một thế giới thu nhỏ lại buộc
các tôn giáo cũng như các quốc gia phải học cách để đối thoại với nhau” (24).
Dưới cái nhìn của văn hóa đối thoại, John C. Schafer khái quát, đúc kết một nét
chung rằng: “Trịnh Công Sơn nhìn thế thái nhân tình theo cái nhìn của nhà Phật
và Phật giáo đem lại cho ông niềm an ủi. Bob Dylan nhìn thế thái nhân tình theo
cái nhìn của đạo Ki-tô và tìm được niềm an ủi trong việc thờ Chúa. Điểm chung
cho hai người ở đây là tìm ra sự thanh thản cho tâm hồn và mãn nguyện với chính
mình. Trên phương diện này có thể Phật giáo và Ki-tô giáo có thể hiểu được nhau
và Trịnh Công Sơn cũng không quá xa lạ đối với Bob Dylan. Vì ai mà không có lúc
cần được sự giúp đỡ để đối phó với sự mong manh của cuộc đời, chẳng hạn như khi
phải đối diện với sự tàn phai của tuổi trẻ, hay sự qua đời của một người thân”
(25).
Cuốn sách của John C. Schafer cho thấy việc nghiên cứu,
tìm hiểu về Trịnh Công Sơn cũng như các hiện tượng văn hóa tiêu biểu khác cần
được tiếp tục mở ra. Mở rộng trường nghiên cứu, nghiên cứu trong so sánh, đối
chiếu với trong nước, kể cả nước ngoài để hiểu mình, hiểu người rõ nét hơn, để
phát hiện, khẳng định sâu sắc hơn, toàn vẹn hơn về các giá trị văn hóa dân tộc,
tạo tiền đề, cơ sở cho việc quảng bá văn hóa, hội nhập về văn hóa với thế giới.
Chẳng hạn, nghiên cứu việc tiếp nhận nhạc Trịnh ở Nhật Bản là một đề tài thú vị.
Cuốn sách này đã gửi gắm một thông điệp quý, đồng thời cũng khẳng định triển vọng
của hướng nghiên cứu nói trên, khi cho rằng giá trị của Trịnh Công Sơn cần được
tiếp tục nghiên cứu, công nhận: “Thiên hạ vẫn còn ngưỡng mộ hai danh tài này vì
những cống hiến lớn lao cho hai nền văn hóa mà họ đại diện. Trên thế giới, Bob
Dylan được biết đến nhiều hơn vì ông là công dân của nước Mỹ, một nước rộng lớn,
và vì tiếng Anh, ngôn ngữ của ông, rất phổ thông trên toàn cầu. Nhưng tôi tin
Trịnh Công Sơn cũng tài năng không kém và đáng lẽ phải được công nhận nhiều
hơn. Tôi cũng khẳng định rằng chúng ta có thể biết nhiều hơn về hai nền văn hóa
Việt và Mỹ bằng cách tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp của hai người này” (26).
NGUYỄN HOÀN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét