Nguyễn Thị Diệu Hiền
Nguyễn Du là một tài năng trác tuyệt, một nhân cách sáng ngời. Tên tuổi và sự nghiệp thơ ca của ông đã, đang và sẽ mãi tỏa sáng. Người đời ngưỡng mộ cụ Nguyễn bởi rất nhiều lẽ. Trong đó, ấn tượng sâu sắc là trái tim nhân đạo mênh mông thấm trên từng trang viết, như có “máu chảy ở đầu ngọn bút”, như “ nước mắt thấm ở trên tờ giấy”. Những khúc đoạn trường ngân lên trong thi phẩm của ông xuất phát từ niềm tri âm sâu sắc với bao kiếp tài hoa bạc mệnh. Từ đấy đến hơn hai trăm năm sau, tiếng thơ Nguyễn Du vẫn tạo nên sự cộng hưởng, đồng điệu của rất nhiều thế hệ. Phải chăng sức sống vĩnh cửu của thơ Nguyễn Du là những niềm tri âm?
Viết về
Nguyễn Du, đã có hàng trăm bài thơ, hàng ngàn công trình nghiên cứu về cuộc đời
cũng như thơ chữ Hán và chữ Nôm của ông từ các độc giả trong và ngoài
nước. Nhưng đề tài Nguyễn Du vẫn là nguồn cảm hứng chưa bao giờ vơi cạn.
Vì thơ Nguyễn Du là minh chứng sinh động cho sức sống vĩnh hằng của giá trị
nghệ thuật đích thực. Vì trái tim nhân đạo mênh mông của ông vẫn thổn thức cùng
nỗi đau con người. Nhân kỷ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du, người viết xin được
góp đến hội thảo đề tài nhỏ: Nguyễn Du- Những niềm tri âm, qua một số bài thơ
của Nguyễn Du và hậu thế viết về ông.
Câu thơ
còn đọng nỗi đau nhân tình…
Nguyễn
Du sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn đầy biến động của lịch sử. Rường mối
phong kiến Việt Nam đã đến lúc rệu rã. Xã hội nhiễu nhương, quyền sống con
người bị chà đạp. Bản thân ông cũng không thể thoát ra khỏi vòng xoáy của sự
biến động, khủng hoảng ấy. Sinh trưởng trong gia đình quý tộc, nhưng triều Lê
sụp đổ, Nguyễn Du trở nên mất phương hướng , đành “ ngẩn ngơ trông ngọn cờ
đào”. Ông phải sống những năm tháng gian truân, trôi dạt, vất vả, long
đong (Trải qua “mười năm gió bụi” Nguyễn Du lang thang hết ở quê vợ, rồi quê
mẹ, quê cha trong nghèo túng, hết sức khổ cực và tủi nhục). Nhưng chính sự trải
nghiệm bất đắc dĩ ấy lại đem đến cho ông một vốn sống, vốn hiểu biết thật sâu
rộng, phong phú. Ông thấu hiểu nỗi đau của con người ở cả môi trường quý tộc
lẫn bình dân. Ông đã nhìn đời với con mắt của người đứng giữa giông tố cuộc
đời. Từ một quý tộc, Nguyễn Du đã trở thành nhà nhân đạo chủ nghĩa, đồng cảm
sâu sắc với mọi kiếp người bất hạnh. Điều đó đã tạo nên một phương diện
nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Du : chủ nghĩa nhân đạo, khiến tác phẩm của
ông hàm chứa một chiều sâu chưa từng có trong văn thơ Việt Nam. Bởi vậy, thơ
ông là niềm tri âm sâu lắng, có sức sống và sức lan tỏa diệu kỳ…
Tri âm
là sự đồng cảm, thấu hiểu sâu sắc, là sự vang ngân của những trái tim, những
tâm hồn đồng điệu… Có rất nhiều giai thoại về những mối tình tri âm làm lòng
người xúc động, như câu chuyện Bá Nha – Tử Kỳ, Trần Phồn – Từ Trĩ, Lưu Bình –
Dương Lễ, Nguyễn Khuyến – Dương Khuê… Trong văn chương, niềm tri âm thường mạnh
mẽ, sâu sắc và có thể vượt mọi khoảng cách không gian, thời gian. Hầu hết sáng
tác của cụ Nguyễn Tiên Điền đều chứa chan tinh thần nhân đạo cao cả, đều là
tiếng nói tri âm. Đó là những khúc đoạn trường, xót thương cho biết bao “kiếp
hồng nhan bạc phận” như Đạm Tiên, Thúy Kiều, xót thương cho sự tàn úa của
những ca nữ tài danh một thời. Đó là nỗi đau xé lòng trước thân phận bi
đát của những con người nghèo khổ vô danh sống ngắc ngoải bên bờ vực của cái
chết. Đó là nỗi đau vượt không gian và thời gian để “khóc người đời xưa”,
khóc cho cả những linh hồn mồ côi… Nói về tiếng lòng tri âm trong thơ
Nguyễn Du, người đọc nghĩ đến rất nhiều thi phẩm, trong đó có “Độc Tiểu
Thanh ký” và “Long Thành cầm giả ca”.
Con
người đầy tài năng, mang hoài bão lớn mà luôn gặp hoạn nạn, trắc trở trên đường
đời gập ghềnh giữa đêm đen của xã hội phong kiến đã tìm được sự đồng điệu với
người đã khuất hơn 300 năm trước. Đó là nội dung “ Độc Tiểu Thanh ký”. Thi phẩm
này là tiếng khóc mà Thanh Hiên dành cho kiếp “hồng nhan đa truân” vì đau khổ,
phẫn uất, “ Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương”.
Câu thơ
đầu là tiếng thở dài trước sự biến cải của cuộc dời dâu bể. Trái tim nhà thơ
thổn thức trước di chỉ của Tiểu Thanh, thấm thía nỗi đau nhân tình. Ba trăm năm
sau, cùng bao biến cải, ảnh hình Tiểu Thanh gần như rơi vào quên lãng. Vậy mà
Nguyễn Du vẫn nhớ tới nàng, viếng hồn nàng với lòng thương cảm vô bờ. Ông càng
ngậm ngùi, xót xa hơn nữa khi:
“Son
phấn” và “ văn chương” là hai hình ảnh hoán dụ, gợi liên tưởng đến sắc đẹp, sự
thông tuệ và tài năng của Tiểu Thanh. Son phấn, văn chương làm gì có thần, có
số mệnh, vậy mà đối với Nguyễn Du, chúng cũng biết hận, biết vương vấn, biết
lụy trước nỗi oan khuất của kẻ tài hoa. Cái đẹp cao khiết bị dâp vùi một cách
không thương tiếc. Sao có thể tránh khỏi nỗi đớn đau,oán hận?
Từ tiếng khóc Tiểu Thanh,
tác giả đã khái quát thành nỗi khắc khoải:
Nỗi
hờn, nỗi hận của Tiểu Thanh đã nằm trong chuỗi hận triền miên day dứt mãi khôn
nguôi tự cổ chí kim. Điều đó thật khó mà hỏi trời. Bởi “ trời thăm thẳm xa vời
không thấu”, sao có thể hỏi được? Sao có thể lý giải được? Như vậy, từ nỗi hận
riêng cho số phận Tiểu Thanh, Nguyễn Du nâng lên thành nỗi hận truyền kiếp từ
xưa tới nay của những bậc giai nhân tài tử. Tài hoa bạc mệnh có phải là định
mệnh oan nghiệt, vô lý, khắt khe của số phận? Mấy ngàn năm trôi qua, nỗi oan lạ
lùng này chưa tìm được nguyên do nên nó tích tụ thành mối hận lớn, thành “một
câu hỏi lớn không lời đáp”. Vì thế, nỗi hận của Tiểu Thanh qua vần thơ Nguyễn
Du vừa có sức mạnh tố cáo xã hội phong kiến bất công, vừa lay động lòng người…
Khóc Tiểu Thanh, thi nhân còn nhỏ lệ cho những kiếp “phong vận kỳ oan”. Đó là
những người tài hoa, là tinh túy của đất trời, vậy mà số phận lại lắm truân
chuyên. Bởi thế, phong lưu đã trở thành cái án chung thân mà khách (kẻ tài hoa-
những người cùng hội cùng thuyền) phải mang nặng suốt đời. Trớ trêu là vậy mà
bao thế hệ văn nhân tài tử vẫn tự mang nó vào mình, trong đó chắc chắn không
thể thiếu Nguyễn Du. Nên “trông người lại ngẫm đến ta”, giọt lệ của thi
nhân đã kết tụ thành những vần thơ nhói buốt:
Với
Tiểu Thanh, 300 năm sau, ở một đất nước xa xôi còn có Nguyễn Du xót xa, thương
cảm và trân trọng. Liệu ba trăm năm sau nữa, người đời có ai khóc cho Tố Như?
Từ khóc người, thi nhân chuyển qua lời tự thương chính mình. Chứng tỏ, ông đang
rất cô đơn, đang thiếu vắng tri âm tri kỷ. Còn gì đớn đau hơn khi trong đời,
con người không tìm được sự đồng điệu, không còn bạn tri âm? Bá Nha từng đập vỡ
cây đàn khi mất Tử Kỳ; Nguyễn Khuyến sau này cũng mất cả hứng làm thơ khi Dương
Khuê qua đời. Nhưng nghĩ cho cùng, Bá Nha và cụ Tam Nguyên Yên đổ vẫn hạnh phúc
hơn Nguyễn Du, vì họ đã từng có tri âm. Đến khi mất bạn, họ mới thấy hụt hẫng,
trống vắng không gì khỏa lấp nỗi. Còn Nguyễn Du chỉ biết khóc cho chính
mình quá cô độc giữa cuộc đời. Và tiếng khóc ấy hướng về hậu thế. Ông băn khoăn
không biết về sau, và nhiều năm sau nữa, còn ai nhớ đến Tố Như, khóc cho Tố
Như? Câu thơ kết còn mang ý nghĩa như một lời dự cảm, một lời tiên tri: Ba trăm
năm sau, hậu thế khóc Tố Như, nghĩa là khóc thương cho những kiếp tài hoa bạc
mệnh không chỉ trong quá khứ mà trong cả hiện tại. Câu thơ mang nỗi buồn sâu
lắng về cuộc đời, cũng chính là một triết lý sâu sắc về thuyết tài mệnh tương
đố. Nguyễn Du thương người đời xưa, thương chính mình và thương cho cả hậu thế.
Đó chính là dòng tri âm xuyên thời gian. Con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng
nghĩ suốt cả nghìn đời của Nguyễn Du là đấy.
Trong suốt đời mình, điều
làm cho đại thi hào day dứt nhất là thân phận người phụ nữ:
Số mệnh
đã dập vùi Tiểu Thanh, mối hận nghìn đời đành vùi chôn dưới lớp cát mỏng. Nhưng
“thân ấy”, tài năng, thanh sắc ấy vẫn còn nhan nhản trong đời- “biết là mấy
thân?” Mà “ càng tài năng, càng thanh sắc”, con người lại càng bị hủy diệt
nhanh chóng. Cảm hứng đó còn được thể hiện trong “Long Thành cầm giả ca” ( Bài
ca về người gảy đàn ở đất Long Thành)- bài thơ chữ Hán đặc sắc mở đầu tập “Bắc
hành tạp lục”. Thi nhân xúc cảm vì “nhân sinh bách niên, vinh nhục ai lạc, kỳ
khả lượng da” (Cõi đời người trăm năm, chuyện vinh nhục, vui buồn khó lường
được). Bài thơ này là những suy tư đầy đau đớn về một người lừng danh một thời,
sau nhan sắc tàn phai, dáng hình tiều tụy, không còn ai nhớ đến, trở thành ảnh
hình rơi vào quên lãng.
“Long
Thành cầm giả ca” thấm đượm tình yêu thương mênh mông, sự trân trọng rất mực và
nỗi cảm thông vô bờ của tác giả với người ca nữ tài hoa. Vẻ đẹp tấm lòng thi
nhân trong tác phẩm là thái độ trân trọng đến nâng niu người ca sĩ tài danh, bị
xã hội phong kiến hắt hủi, khinh miệt. Tri âm người ca nữ, tác giả đặc tả bàn
tay tài hoa với những ngón đàn tuyệt diệu:
Đúng là
một bữa tiệc âm thanh với biết bao cung bậc cảm xúc, bao nỗi niềm được giãi bày
trên từng ngón xuân: dìu dặt, khoan nhặt, đục trong, mạnh mẽ mà cũng buồn da
diết. Thưởng thức tiếng đàn, ai cũng ngỡ như “một khúc đàn hay tuyệt từ trời
đưa xuống thế gian”. Người người đắm chìm trong sự mê hoặc của những điệu nhạc,
quên cả mệt nhọc, quên cả thời gian:
Người
ca nữ chính là báu vật độc nhất vô nhị của đất Long Thành. Nhưng trớ trêu thay,
cái đẹp, sự tài hoa ấy bị “trời đất ghen”, nó chỉ được trân trọng, nâng niu
nhất thời. Càng quý trọng tài năng, nhà thơ càng bàng hoàng, thảng thốt khi hai
mươi năm sau, ông gặp lại cô gái ấy với một dáng điệu khác hẳn:
Có ai
nhận ra con người tài hoa nhất thành, lộng lẫy khoe hương tỏa sắc đêm nao, giờ
đây lại già nua, võ vàng, chìm khuất thu mình ngồi cuối chiếu? Đâu rồi nét trẻ
trung phong nhã năm nào? Đâu rồi sự ngẩn ngơ đến mê mẩn của những người thưởng
thức bữa tiệc âm thanh? Thực ra ngón đàn tài hoa ấy không tàn phai theo thời
gian như dáng vẻ con người. Nhưng không còn ai hiểu và trân trọng nàng như
trước nữa. Chỉ có Nguyễn Du thấu cảm nên càng xót xa “lệ thương tâm ướt vạt áo
là”. Có phải cái đẹp đã nhuốm màu phôi pha???
Như
vậy, tiếp cận hai bài thơ chữ Hán đặc sắc “Độc Tiểu Thanh ký” và “Long Thành
cầm giả ca”, người đọc cũng có thể hiểu được tài năng, tấm lòng nhân đạo vô
biên của đại thi hào dân tộc. Nhà thơ đã bày tỏ niềm băn khoăn về lẽ đời biến
thiên dâu bể, nỗi đau đớn về thận phận người nghệ sĩ phương Đông thời
phong kiến tài sắc nhưng bị số phận dập vùi. Ông xót xa vì những giá trị tinh
thần lẽ ra được tôn vinh, lại bị chà đạp một cách phũ phàng. Khóc người, khóc
mình là tiếng khóc của những tâm hồn đồng điệu. Sợi tơ lòng của Nguyễn Du đã
ngân rung, chạm đến cõi thẳm sâu của tâm hồn người, lay động đất trời qua từng
con chữ.
Tình
thương nối nhịp suốt nghìn năm sau
Sinh thời, Nguyễn Du đã từng day dứt, lo lắng:
Câu thơ bày tỏ nỗi cô đơn đến rợn ngợp và niềm mong
mỏi sự đồng điệu, tri âm hướng về hậu thế. Trong cuộc đời đầy trái ngang của
mình, cụ Nguyễn Tiên Điền đã khóc cho biết bao kiếp người, đã đau cùng nỗi đau
của nhân thế. Vì vậy, với tài năng trác việt, những thông điệp tình thương bằng
thơ của ông đã chạm đến trái tim hàng trăm thế hệ. Chưa đến ba trăm năm sau,
hậu thế đã hiểu và trân trọng cái Tâm, cái Tài của ông. Sức sống, sự lan tỏa
của truyện Kiều, của thơ và nhân cách Nguyễn Du thời nay đã khẳng định điều đó.
Người đời lẩy Kiều, tập Kiều, bói Kiều. Người đời không ngừng viết về Nguyễn Du
và nghiên cứu các giá trị thơ ca của ông. Vì: “Hoàng Hà đã cạn, thơ Người
vẫn sâu”
Trong dòng cảm xúc tri âm của hậu thế dành cho cụ
Tố Như, người đọc bắt gặp thi sĩ núi Tản sông Đà khái quát cuộc đời đầy bi kịch
của nàng Kiều rồi kết lại bằng nỗi xót thương:
Và không ai có thể quên được bài thơ ra đời giữa lúc giặc
Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh ra miền Bắc nước ta: “ Kính gửi cụ Nguyễn Du” của
Tố Hữu. Bài thơ lục bát độc đáo này vừa gợi lại không khí truyện Kiều, vừa bày
tỏ tiếng lòng hậu thế với bậc tiền nhân:
Với sự cảm
thông sâu xa tấn bi kịch của Tố Như và Thúy Kiều, Tố Hữu thể hiện tình yêu chân
thành và ngợi ca thiên tài Nguyễn Du, đồng thời, huy động sức mạnh tinh thần
của cha ông Nguyễn Du vào cuộc “Ra trận” hôm nay.
Thơ Nguyễn Du còn là nguồn sức mạnh tiếp cho hậu thế, để
đấu tranh chống “quân Ưng Khuyển, bầy Sở Khanh” của thời hiện đại. Đó chẳng
phải niềm tri âm sâu sắc và sự trân trọng? Đó chẳng phải thơ Nguyễn Du theo
thời gian lại mang thêm những vẻ đẹp mới để trường tồn? Còn với Chế Lan Viên: “Nguyễn
Du viết Kiều đất nước hóa thành văn” (Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?),
và “Mỗi trang Kiều rung một bóng trăng thanh” (Đọc Kiều). Kiệt tác
“Truyện Kiều”, trong cảm nhận của tác giả “Ánh sáng và phù sa” luôn thấm đẫm
tinh thần dân tộc, và mỗi trang thơ đẹp lung linh như bóng trăng thanh.
Có một mảng thơ mà rất nhiều người viết khi đến thăm mộ
Nguyễn Du, kính viếng hương hồn thi nhân như nén tâm nhang, như ly rượu ấm, như
vòng hoa thắm, như ngọn lửa hồng. Phan Trung Hiếu bày tỏ niềm tri âm sâu sắcvới
nỗi đau đời của đại thi hào:
Nhà thơ
Hoàng Trung Thông cũng đã thắp nén tâm hương trong “Thăm mộ Nguyễn Du”:
Nguyễn Hữu
Chỉnh đã “Nhớ cụ Nguyễn Du”:
Những thi nhân thời hiện đại vẫn thấm thía nỗi đoạn
trường của Nguyễn Du, cùng Nguyễn Du. Không những thế, họ còn khẳng định thơ
Người sẽ mãi dạt dào sức sống như “cỏ non xanh tận chân trời”. Đến nay, những
niềm tri âm đối với cụ Tố Như đã trở thành không biên giới. Đặc biệt, kiệt tác
“Truyện Kiều”, nỗi đau đứt ruột của tác giả đã làm nhói buốt trái tim bạn đọc
thế giới. Nhà thơ Hunggari Hollo Andrase đã viết một tứ thơ độc đáo, vừa triết
lý cô đọng, vừa ấm nồng sức gợi, sức ngân vang:
Hậu thế đã khóc Tố Như, đã trân trọng trái tim nhân đạo
mênh mông và ngưỡng mộ tài năng bậc nhất của đại thi hào. Những tâm hồn đồng
điệu lan tỏa và đan kết thành nguồn cảm xúc thấm đẫm chất nhân văn. Nguyễn Du
và thơ ông mãi sống hôm nay và mãi mai sau.
…Trong
kiệt tác “Truyện Kiều”, đại thi hào từng khẳng định:
Câu thơ đề cao cái Tâm của người nghệ sĩ, cái Tâm với
nghiệp văn chương và với đời. Nhưng thực ra, sự bất hủ của tác phẩm Nguyễn Du
chính là sự kết hợp hài hòa, vi diệu của cả Tâm và Tài. Để từ đó, thơ ông đã ra
đời từ những bể dâu ngang trái và bao quằn quại đớn đau của kiếp người. Nếu
“nghệ thuật là nỗi buồn về cái đẹp” thì thi phẩm Nguyễn Du là những điệu
buồn da diết, mênh mang về bao kiếp tài hoa bị “trời đất ghen”, về cái đẹp bị
số phận dập vùi phũ phàng, là tiếng khóc tức tưởi về thế thái nhân tình. Trái
tim Nguyễn Du đã vỗ nhịp trong những vần thơ, tạo nên sự hòa cảm và sức lay
động diệu kỳ.
Tri âm Nguyễn Du, sự đồng điệu của những tâm hồn sẽ góp
phần làm cho tên tuổi của ông ngày càng chói sáng và vươn xa hơn nữa. Tri âm
Nguyễn Du, những tấm lòng nhân hậu, bao dung sẽ phát tán khắp nơi cho giá trị
nhân văn được tôn vinh, cho văn chương mãi bồi đắp hồn người.
***
* Tác giả Nguyễn Thị Diệu Hiền - Gv Ngữ Văn Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
* Bài đăng trên trang này được sự đồng ý của tác giả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét