Mộc Nhân
(Trích bài viết về tập sách "Hương thời gian" của Phan Vân Trình)
-----------
Hương thời gian là tập biên khảo thứ tư của Phan Vân Trình sau Từ lời hát ru xứ Quảng (Nhà xuất bản Đà
Nẵng - 2018), Ngọn bút sắc của vị Kiều
tướng (Nhà xuất bản Đà Nẵng - 2020), Ngọc
trong đá (Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2021). Với những gì mà Phan Vân Trình đã
dày công đọc, truy xuất, ghi chép, tái tạo… trong suốt hành trình nghiên cứu,
chúng ta thấy anh có đủ phẩm chất của một nhà biên khảo thực sự.
Đình Không Chái ở làng Hóa Phú, Đại An, Đại Lộc, QN |
Tựa sách Hương thời gian khiến chúng ta nhớ đến
những câu thơ trong bài Màu thời gian
của thi sĩ tiền chiến Đoàn Phú Tứ: “Màu thời gian không xanh/ Màu thời gian tím
ngắt/ Hương thời gian không nồng/ Hương thời gian thanh thanh”. Có lẽ với việc
mượn tứ thơ trên để đặt tựa, nhà biên khảo muốn nói rằng, thời gian vô thủy vô
chung nhưng mang theo những sắc màu đẹp đẽ; những gì vượt lên sự sàng lọc
nghiệt ngã của thời gian để còn lại sau khi đã quên đi tất cả có thể ví như một
thứ hương bất tử: Hương thời gian.
Hình tượng thi ca trừu
tượng mà đẹp đẽ ấy vừa gợi mở đề tài cho tác phẩm vừa dẫn dắt bạn đọc vượt khỏi
không gian biên khảo để tiếp cận các giá trị nghệ thuật trường cửu từ đất và
người xứ Quảng.
Dòng biên khảo của Phan
Vân Trình không chỉ dừng lại ở nghiên cứu mà còn là dòng hoài niệm người xưa,
cảnh cũ với nhiều trầm tích văn hóa xã hội cũng được tác giả khảo cứu khá kỹ.
Với những gì mà Vân
Trình mang đến cho chúng ta trong tập biên khảo này, anh đã ý thức được trách nhiệm
của người cầm bút - không phải là thấy được nó, mà là kích hoạt để nó sống lại
trong đời sống hiện tồn của cộng đồng, dân tộc…
(Hết trích - văn bản đầy đủ tôi sẽ đăng sau khi sách được xuất bản)
----------
Một
bài viết trong tâp Hương thời gian của Phan Vân Trình
THẤT
CHÂU QUẢNG HUẾ
Từ nửa sau thế kỷ 15,
dưới thời Lê sơ, công cuộc khai khẩn và phát triển làng xã ở Bắc Quảng Nam được
đẩy mạnh.Theo đó, một xã lớn ra đời, mang xã hiệu Quảng Hóa (Quảng Huế), thuộc
huyện Điện Bàn, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa. Đây là một trong 66 xã/làng có
tên trong sách Ô châu cận lục của Tiến sĩ Dương Văn An, viết năm 1553, sửa
chữa và ấn hành năm 1555. “Thất châu Quảng Huế” tức 7 châu vùng Quảng Huế: Hóa
Đại, Hóa Yên, Hóa Phú, Quảng Hóa, Hóa Trung, Hóa Đông và Hóa Tây, nay thuộc xã
Đại An, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Lai lịch danh xưng
Danh xưng “Thất châu
Quảng Huế” bắt nguồn từ lịch sử hình thành vùng đất này, khi mà vùng cửa sông
Thu Bồn, Vu Gia hãy còn nằm sâu trong đất liền. Theo cố Tiến sĩ sử học Huỳnh
Công Bá, châu (洲)ở
đây có nghĩa là “bãi” hoặc “cồn”. Ngược về thế kỷ 15, khi theo vua Lê Thánh
Tông vào mở đất ở Quảng Nam, những lưu dân Việt đã bền gan vững chí khai phá và
cải tạo vùng bãi tân bồi ven sông Vu Gia, Thu Bồn với đặc điểm là đất thấp, phù
sa mới bồi chưa có điểm tựa để ổn định, hằng năm lại bị nước lụt đi qua làm rửa
trôi phù sa. Biện pháp chủ yếu được lưu dân áp dụng thành công đó là làm “cứng”
dần đất đai thông qua việc “đẩy” dần lau, bói tiến ra mép sông và trồng dâu ở
bên trong. Những bãi dâu xanh mượt ven sông không chỉ là nguồn thức ăn cho
những nong tằm óng ả mà còn là những “trụ cột” giữ đất có hiệu quả, đồng thời
thúc đẩy quá trình bồi tụ của phù sa trong mùa mưa lũ. Địa bạ ở hầu hết vùng
“Thất châu Quảng Huế” đều ghi là “tang
căn thổ”, tức đất gốc dâu, là vì thế mà ra. Đối với những bờ đứng, để chế
ngự hiện tượng sụt lở đất, lưu dân cho phủ loại cỏ dày, cỏ lùng- là những loại
cỏ thân rễ ken dày, đan thành nhiều lớp, bám chặt đất. Các loại cỏ này có tác
dụng che mưa rất tốt, khi nước lũ đi qua chỉ bị rạp xuống và xuôi theo dòng
nước, không tạo ra hiện tượng nước xoáy. Ở khu vực quanh nhà ở, lưu dân trồng
các loại cây lưu niên có thân và tán cao như mít, cau, bưởi, ổi và đặc biệt là
trồng tre để ngăn nước lũ cuốn trôi nhà cửa.
Công cuộc khai khẩn để
“giang thủy biến vi tang điền”, hình thành
nên “Thất châu Quảng Huế” kéo dài rất nhiều năm và vô cùng gian nan, khổ
ải. Phổ hệ của tộc Lê Thế làng Quảng Hóa (Quảng Huế) cho hậu thế biết rõ hơn
điều này: “Triệu thủy tiền hiền khai khẩn tự Lê quý công, húy là Lê Thế Thái,
nguyên người Thọ Xuân, Thanh Hóa. Ông vào Quảng Nam xong việc chỉnh đốn biên
cương rồi, ông ở lại lập nghiệp. Ông bèn khai hoang vỡ hóa hai xứ đất là Vũng
Cầu và Bàu Tôm, nay thuộc địa bộ Hóa Phú. Sau vì lũ lụt quá lớn, ông bỏ đi lên
xứ đất Cây Dừa làng Quảng Hóa. Khai phá đã nhiều nhưng chưa ổn định được nơi ăn
chốn ở, ông còn bâng khuâng lo nghĩ. Thời gian trên, hai ông bà gặp nhau, bị
con cái ốm đau, rồi chết cả hai người con, an táng tại mẫu tư diên cư xứ Cây
Dừa, nên ông cho đất này không được tốt, đành phải dời đi nơi khác, tức là xứ
Cây Gạo làng Quảng Hóa bây giờ. Đến đây ông dựng nên cơ nghiệp, có đất tự điền,
nhà thờ, chung quanh xứ này do ông khai phá”.
Theo
các nhà nghiên cứu, nghề trồng dâu và chăn tằm kéo kén, dệt lụa của người dân
“Thất châu Quảng Huế” chính là nhân tố quan trọng để chợ Quảng Huế trở thành
trung tâm giao lưu hàng hóa giữa Đại Lộc với Điện Bàn, Duy Xuyên, Hội An… và miệt
nguồn bằng đường thủy. Theo Đại Nam nhất thống chí,
chợ Quảng Huế có ngạch thuế hạng 6. Cho đến nay, dân gian vẫn còn lưu truyền câu
ca:
Kể
từ Quảng Huế xô ra
Khe Rô, Quảng Đại, Ô Gia, Trang Điền…
Hay:
Kể từ Quảng Huế xô ra
Kim
Liên, Lệ Trạch, Vân Ly, Đa Hòa…
Trong
cuốn Quê
nội, nhà văn Võ Quảng đã miêu tả sự giao lưu hàng hoá ở chợ Quảng Huế
xưa: "Bạn hàng từ Bảo An lên mua sợi đi một hàng dài, người nào cũng có một
cái cân móc trên khuy áo trước ngực, trên vai vắt một khăn vuông to".
Ngày
nay, cầu Quảng Huế và cầu Giao Thủy đã nối đôi bờ Đại An – Đại Cường, Đại Lộc -
Duy Xuyên, cầu Vân Ly sắp được khởi công xây dựng kết nối Đại Lộc – Điện Bàn.
Đây là điều kiện thuận lợi để chợ Quảng Huế phục hồi những giá trị văn hóa độc
đáo từ xa xưa.
Dấu xưa một thuở
Tại
làng Hóa Phú, thôn Phú Mỹ, xã Đại An, huyện Đại Lộc hiện
tọa lạc một ngôi đình cổ- đình Không Chái. Tương truyền, đình này vốn có
tên là đình Quảng Huế- đình chung của “Thất châu Quảng Huế”. Xưa, đình có 5
gian và 2 chái, kiến trúc theo dạng hình chữ Nhất, cột đình to hơn vòng tay ôm
của một người lớn, gạch ngói sử dụng xây dựng đình làng đều là gạch ngói cổ. Trải
qua bao thăng trầm của lịch sử, ngôi đình cổ chỉ còn lại 2 trụ biểu, bức bình
phong và 4 trụ
đá cùng câu đối:
Tứ tộc kế tiền công đấng lương nhật lự
Lục châu hoàn ngoại viện sơn thủy thiên thành.
Tạm dịch:
Bốn tộc kế tục cơ
nghiệp tiền nhân ngày ngày lo sao xứng đáng với vai trò rường cột.
Sáu châu bao quanh mặt
ngoài núi sông này trời tạo lập nên.
Theo các bô lão ở làng Hóa Phú, bốn tộc được
vinh danh trong vế đối thứ nhất là: Lê, Nguyễn, Trần, Võ. Đây là các tộc đầu
tiên có mặt ở vùng đất hoang ngập nước Quảng Huế để khai phá và lập nghiệp. Còn
vì sao có 7 châu tạo lập đình mà vế đối thứ hai lại ghi "lục châu hoàn ngoại viện"?
Đó là vì châu Hóa Phú là địa điểm xây dựng ngôi đình, 6 châu còn lại
nằm bao bọc xung quanh châu này.
Ngày xưa, cứ mỗi độ xuân về, đình Quảng Huế là nơi các tộc họ của 7 châu cùng nhau đón Tết. Sân đình diễn ra Hội bài chòi- một trò chơi dân gian hấp dẫn. Trong không khí rộn rã ngày Tết, tiếng hò thai vui nhộn, tiếng trống reo vui như thôi thúc mọi người: “Rủ nhau đi đánh bài chòi/ Để cho con khóc đến lòi rún ra”. Về sau, khi các vùng dân cư phát triển mạnh, bà con các châu cúng bái để xin Thành hoàng và các bậc tiền nhân cho tháo dỡ 2 chái của đình Quảng Huế chia nhau nhằm "lấy thiêng" mang về xây dựng các ngôi đình riêng ở từng châu. Từ đó đình chung chỉ còn lại phần chính mái lợp ngói và mang tên mới- đình Không Chái.
Đình Không Chái không những là dấu xưa một thuở của “Thất châu Quảng Huế” mà còn là một di tích lịch sử cấp tỉnh (được UBND tỉnh Quảng Nam xếp hạng năm 2005).
---------
Tiểu luận: Mộc Nhân
Bài biên khảo: Phan Vân Trình
(Nguồn đã dẫn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét