Mộc Nhân
Bất cứ khi nào có thể, tôi đều ngồi cạnh mẹ và lắng nghe những câu chuyện bà kể. Mẹ có một kho chuyện để kể cho các con – chuyện cổ tích, chuyện đời, chuyện làng nước, chuyện ông bà cô chú anh chị em… Riết hồi, tôi có kho chuyện của mình, nó trở thành chất liệu để khi cần tôi viết lại hay trích dẫn hay hư cấu thêm…
![]() |
| Ba và mẹ tôi lúc sinh thời |
Nhưng rồi những câu chuyện mẹ kể cũng cạn dần, lặp lại; thay vào đó, bà kể cho tôi nghe chuyện của mình, về cuộc đời của bà. Dù trước đó, tôi chưa bao giờ hỏi mẹ: Cuộc sống thời trẻ thơ của mẹ thế nào.
***
Tôi thuộc thế hệ 6x, tất
nhiên tôi không có ký ức trực tiếp nào về thời kỳ đó nhưng nó dần tái hiện qua
lời mẹ và ba kể. Điều đầu tiên tôi có thể nhớ đó là thời chiến tranh, đất nước
chia cắt, gia đình tôi sống ở Miền Nam, ba phục vụ trong quân đội cộng hoà, mẹ
nội trợ, hai ông bà nuôi chín người con ăn học tử tế. Sau 1975, cả nhà về quê
làm ruộng, đời sống rõ ràng là vất vả nhọc nhằn nhưng chúng tôi vẫn ăn học tới
nơi tới chốn, và hiển nhiên vẫn phải tham gia lao động như một phần góp công để
xây dựng cuộc sống thời kỳ này… (Nếu kể lại chuỗi sự việc này thì phải viết ra
một cuốn sách).
Toàn bộ diễn trình đời sống
đối với một con người luôn có những ấn tượng, gắn trong ký ức. Tôi đã từng nghe
nhưng tiếng nổ lớn trong khu phố, thấy đoàn người tị nạn trong đêm Mậu Thân
1968, sáng ra thấy những xác chết bên lề đường... ấn tượng đó, đối với một đứa
trẻ thì thật khủng khiếp, xen với tò mò, hiếu kỳ.
Gia đình tôi sống trong
một đường nhỏ, đêm đó ba vào trại lính trực chiến, mẹ giữ riết không cho đứa
con nào ló đầu ra khỏi hầm, tôi thực sự sợ hãi nhưng trí tò mò bị kích thích
nhiều hơn, chờ đến buổi sáng để mãn nhãn những điều trong đêm thao thức, tưởng
tượng, tự vấn… Và hôm nay, khi đã sang tuổi già, tôi nhớ được nhiều điều về thời
gian đó.
Có thể nói, những suy
nghĩ của tôi về đời sống, về bi kịch của con người đã bắt đầu từ lúc đó. Sau
này, khi lớn hơn một chút, tôi đã biết về một số điều: Mỹ có mặt tại Miền Nam
như thế nào, chính quyền và quân đội cộng hoà đã làm gì ở Miền Nam, những biến
động, nội chiến, chiếm đóng, đảo chính… (Nếu kể lại chuỗi sự việc này thì phải
viết ra một cuốn sách).
Cảm xúc của tôi lúc đó và
cả đến lúc này là: cuộc sống của tất cả chúng ta luôn bất an, hạnh phúc mong
manh, vui buồn bất chợt, không có gì đảm bảo sự bền lâu.
Thời chiến tranh, sống
chết cận kề, chỉ riêng việc còn sống cũng không được đảm bảo. Công việc của ba
tôi cũng vậy bởi vì ông được coi là người lính già, không có khả năng cầm súng
mà chỉ là lính văn phòng, nhưng với “bên thắng cuộc” ông vẫn là lính cộng hoà,
là đối phương, là phe địch. Vì vậy, ông dễ dàng bị họ bắt, nhưng điều đó đã
không xảy ra trước 1975.
Sau chiến tranh, cái giá
mà một người thuộc “chế độ cũ” phải trả cho cách mạng thực sự rất cao: cải tạo
không giam giữ hoặc bị giam giữ, lưu đày, lao động khổ sai, bệnh tật, chết
chóc… và gia đình họ phải lao động cật lực để duy trì cuộc sống ở mức tối thiểu.
Vào thời điểm đó, chúng tôi chỉ có vài loại lương thực được cấp theo ngày công
lao động trong hợp tác xã được quy đổi, thật ít ỏi, đủ ăn để sống dưới mức
trung bình – ngô, khoai, sắn; thời đó vùng chúng tôi hầu như không có lúa gạo, vậy nên muốn có hạt lúa phải
quy đổi và điều tiết từ các vùng khác bằng cách tự đi gánh về trụ sở thôn, rồi
chia nhau mà dùng.
Tất nhiên ngay cả việc
nhận loại lương thực này người dân cũng không được chọn lựa vì đôi khi đó là gạo
dự trữ lưu kho đã ẩm mốc, trở màu, nấu cơm hoặc cháo có mùi vị rất khó chịu, chả
được thơm tho như mùi tô cháo của thị Nở. Nói chung thời đó chúng tôi ăn bất cứ
thứ gì mà hôm nay nhiều người không thể ăn được: bã củ chuối nước giã thành bột
để làm bánh, thân cây chuối… hoặc nhiều thứ ngày nay ít người ăn. (Nếu kể lại
chuỗi sự việc này thì phải viết ra một cuốn sách).
Ba mẹ tôi cũng cải thiện
đời sống bằng cách nuôi heo và gà bằng mọi thứ nguyên liệu phế thải hay tận dụng.
Tôi rất thích nhưng quả trứng gà, nó vừa đẹp vừa thơm ngon, hiển nhiên là dinh
dưỡng nhiều.
Chúng tôi hầu như không
mua gì cả, không có tiền. Hàng phân phối theo tem phiếu đủ xài ở mức tối thiểu
và không bận tâm đến tính thẩm mỹ của nó.
Nói chung vào thời điểm
đó, cuộc sống của toàn dân ở một đất nước được tuyên truyền là trong thời kỳ
quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội không được tốt lắm về mặt vật chất. Ba tôi là
người duy nhất kiếm được tiền nhờ đôi khi làm thuê có trả công bằng tiền; mẹ
tôi cũng kiếm được chút tiền lẻ nhờ bán vài thứ nông sản, rau trái củ quả lặt vặt
- thực ra là nhịn ăn để bán lấy tiền mua
vài thứ thiết yếu không thể không mua như: dầu hoả thắp sáng, gia vị, đôi dép
cho con, sửa chữa nông cụ...
Nhà tôi có chín anh chị em. Mẹ vừa là lao động
chính thứ hai (cùng với ba) vừa là người chăm sóc gia đình, quyết đinh mọi thứ.
Cha tôi luôn đi làm, mẹ tôi cũng đi làm nhưng lại lo thêm việc nhà, và cuộc sống
của gia đình luôn khó khăn về vật chất, bị đè bẹp bởi nghèo đói mọi mặt, lại
thêm cơ chế ứng xử lý lịch của chính quyền nên ba tôi ít khi vắng mặt tại địa
phương – nếu vắng nhiều ngày phải báo cáo, giao tiếp với người lạ bị nghi kỵ,
dò xét; chúng tôi không được đi học đại học vì lời phê trong lý lịch và xác nhận
của chính quyền địa phương là “có cha đi lính cho chế độ cũ”, tôi được biết có
người bị phê nặng hơn “cha đi lính cho chế độ cũ và có gây nợ máu với cách mạng”
– thôi xong; anh bạn tôi tên Trương T, học xuất sắc, thi đại học 4 lần đều đỗ với
số điểm cao nhưng với lời phê ấy thì cuộc đời và chí làm trai đã khép lại, rốt
cuộc vì phẫn chí, bế tắc, anh đã treo cổ tự tử. (Nếu kể lại chuỗi sự việc này
thì phải viết ra một cuốn sách).
Tuổi thơ của chúng tôi
sau 1975 không có nơi nào để có thể vui chơi, tuổi trẻ (của những bọn vướng lý
lịch) không có con đường nào rộng mở, tuổi già như ba tôi thì lao động miệt mài
và ứng xử thụ động không dám thể hiện…
Tất nhiên bạn bè tôi
cũng có thể vui chơi bằng cách nào đó.
Đôi khi, chúng tôi trở
thành kẻ cắp thực sự - bẻ ngô hợp tác xã, hốt trộm lúa của tập thể khi đang
phơi trên ruộng mà tôi đóng vai trẻ mót lúa – mà dường như một số xã viên hợp
tác xã thông cảm với nạn dân nên làm ngơ, cho qua và không xem là tội. Nhưng một
số thằng bạn đồng lứa, con cái của những ông bà có công cách mạng nên cậy thế
(cho rằng không ai dám tố) thì tệ hại hơn, chúng thành kẻ cắp chuyên nghiệp với
các sự nghiệp lẫy lừng thôn xóm như bắt gà, trộm chó, đục tường khoét vách
khuân đồ thờ… Trộm nào cũng là trộm nhưng đôi khi một thằng trộm biết sai và áy
náy vẫn có quyền khinh bỉ một thằng trộm vô lương – chúng chính là tiền thân của
quan tham làm huỷ hoại uy tín thể chế chính trị, là củi của lò đang cháy hôm
nay. (Nếu kể lại chuỗi sự việc này thì phải viết ra một cuốn sách).
Khi tôi đã tuyệt giao với
“bọn trộm” nói trên thì con đường cho chúng tôi chỉ là đi học và tham gia lao động
cùng gia đình, cũng là cho chính mình, dĩ nhiên là ở trường chẳng có trò chơi
nào cả, và tôi cũng ít có bạn bè – vì bạn bè phải kết nối trong cuộc chơi chứ
không phải miệt mài làm mọt sách.
Dù sao đi học cũng thú
hơn lao động, nhưng phải có đôi chân khoẻ để đi bộ mỗi ngày trên 10km đi và về,
mùa mưa thì ướt nhem, đôi chân lội bùn tới gối, mùa nắng thì đội trời nóng 40 độ
mồ hôi nhễ nhại mong về nhà để ăn và ngủ.
***
Nhưng cái thú nhất của bọn
học trò tuổi mới lớn là được ngồi gần hoặc động chạm bạn khác giới của mình, hoặc
ngắm tấm lưng phẳng của đứa con gái mình thích có hằn vết dây coóc-xê, hoặc
nhìn sợi lông tơ mởn trên tay bạn ấy hoặc tìm cách ngồi thật gần để tận hưởng
mùi thơm da thịt của họ… chỉ vậy thôi, và dường như nó thay cho các trò chơi,
sân chơi mà chúng tôi không có. Tất nhiên, nhiều đưá trong chúng tôi không thể
trì hoãn cái sự sung sướng nên đã nhanh chóng kết thành cặp và chúng trở thành
kẻ biết mùi ân ái sớm nhất.
Với tôi, như thế cũng là
xa xỉ, sau này, ngay cả khi chúng tôi lớn lên, đi xem phim, ngồi café, ăn quà vặt…
cũng là xa xỉ; giải trí hay mặc đẹp cũng là xa xỉ… Mà cũng chẳng thể có tiền để
mà xa xỉ.
Sống tử tế đôi khi cũng
là xa xỉ dưới mắt “bọn trộm nòi” kể trên.
Vậy là từ một ngôi trường
trung học bình thường, chúng tôi học lên cao hơn ở một ngôi trường bình thường
khác gắn với các câu ca diễu nhại: “nhất y, nhì dược, tạm được bách khoa, sư phạ
bỏ qua” hoặc “chuột chạy cùng sào mới vào cao đẳng”… Nhưng chúng tôi không bận
tâm suy nghĩ vê điều đó bởi phía trước là nạn đói/ bớt đi một miệng ăn (mà làm
thì như bọn dài lưng tốn vải) trong gia đình càng hay chứ sao, lại rời khỏi mắt
“bọn trộm nòi” ở địa phương lại thêm tốt, được đi học nữa… và phía sau là cuộc
tổng động viên cho chiến tranh biên giới tây nam, tạm thoát ra/ hay trì hoãn khỏi
cuộc đao binh ngày nào hay ngày ấy… (Nếu kể lại chuỗi sự việc này thì phải viết
ra một cuốn sách).
Chúng tôi học các môn
khoa học xã hội và sau này tôi nhận ra nhiều thứ trong đó là tuyên truyền hơn
là sự thật, vài người thầy sau này gặp lại họ cũng xác nhận thế/ mà không xác
nhận thì chúng tôi cũng đủ tư duy nhận thức, nhưng cũng có thầy Trần Th ngay
lúc giảng các bài học văn chương đã giễu nhại, pha trò để hé mở cho chúng tôi
vài chỗ như thế… Lúc ấy, chúng tôi cảm thấy thích thú hơn là hiểu rõ sự thật.
Tôi thích cách một số
ông thầy chắp tay sau lưng, vừa đi vừa giảng bài, điếu thuốc kẹp giữa hai ngón
tay, miệng thỉnh thoảng nhả những vòng khói đẹp, đôi khi nhắc nhở đứa học trò
chưa nghiêm túc bằng động tác búng viên phấn trúng ngay mặt hắn một cách điệu
nghệ, chính xác khiến cả lớp thích thú, sau đó là một thoáng thì thầm, xuýt
xoa, cười khẽ và nghiêm túc trở lại.
Và giờ đây, khi gõ vào
dòng này, tôi nghĩ nếu kể lại chúng thì phải viết ra một cuốn sách… và chắc mẹ tôi,
ở nơi nào đó đang nghe tôi kể lại.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét