5/11/25

3.685. NẾU KỂ LẠI THÌ PHẢI VIẾT RA MỘT CUỐN SÁCH

 Mộc Nhân

Bất cứ khi nào có thể, tôi đều ngồi cạnh mẹ và lắng nghe những câu chuyện bà kể. Mẹ có một kho chuyện để kể cho các con – chuyện cổ tích, chuyện đời, chuyện làng nước, chuyện ông bà cô chú anh chị em… Riết hồi, tôi có kho chuyện của mình, nó trở thành chất liệu để khi cần tôi viết lại hay trích dẫn hay hư cấu thêm… 


Ba và mẹ tôi lúc sinh thời

Nhưng rồi những câu chuyện mẹ kể cũng cạn dần, lặp lại; thay vào đó, bà kể cho tôi nghe chuyện của mình, về cuộc đời của bà. Dù trước đó, tôi chưa bao giờ hỏi mẹ: Cuộc sống thời trẻ thơ của mẹ thế nào.

***

Tôi thuộc thế hệ 6x, tất nhiên tôi không có ký ức trực tiếp nào về thời kỳ đó nhưng nó dần tái hiện qua lời mẹ và ba kể. Điều đầu tiên tôi có thể nhớ đó là thời chiến tranh, đất nước chia cắt, gia đình tôi sống ở Miền Nam, ba phục vụ trong quân đội cộng hoà, mẹ nội trợ, hai ông bà nuôi chín người con ăn học tử tế. Sau 1975, cả nhà về quê làm ruộng, đời sống rõ ràng là vất vả nhọc nhằn nhưng chúng tôi vẫn ăn học tới nơi tới chốn, và hiển nhiên vẫn phải tham gia lao động như một phần góp công để xây dựng cuộc sống thời kỳ này… (Nếu kể lại chuỗi sự việc này thì phải viết ra một cuốn sách).

Toàn bộ diễn trình đời sống đối với một con người luôn có những ấn tượng, gắn trong ký ức. Tôi đã từng nghe nhưng tiếng nổ lớn trong khu phố, thấy đoàn người tị nạn trong đêm Mậu Thân 1968, sáng ra thấy những xác chết bên lề đường... ấn tượng đó, đối với một đứa trẻ thì thật khủng khiếp, xen với tò mò, hiếu kỳ.

Gia đình tôi sống trong một đường nhỏ, đêm đó ba vào trại lính trực chiến, mẹ giữ riết không cho đứa con nào ló đầu ra khỏi hầm, tôi thực sự sợ hãi nhưng trí tò mò bị kích thích nhiều hơn, chờ đến buổi sáng để mãn nhãn những điều trong đêm thao thức, tưởng tượng, tự vấn… Và hôm nay, khi đã sang tuổi già, tôi nhớ được nhiều điều về thời gian đó.

Có thể nói, những suy nghĩ của tôi về đời sống, về bi kịch của con người đã bắt đầu từ lúc đó. Sau này, khi lớn hơn một chút, tôi đã biết về một số điều: Mỹ có mặt tại Miền Nam như thế nào, chính quyền và quân đội cộng hoà đã làm gì ở Miền Nam, những biến động, nội chiến, chiếm đóng, đảo chính… (Nếu kể lại chuỗi sự việc này thì phải viết ra một cuốn sách).

Cảm xúc của tôi lúc đó và cả đến lúc này là: cuộc sống của tất cả chúng ta luôn bất an, hạnh phúc mong manh, vui buồn bất chợt, không có gì đảm bảo sự bền lâu.

Thời chiến tranh, sống chết cận kề, chỉ riêng việc còn sống cũng không được đảm bảo. Công việc của ba tôi cũng vậy bởi vì ông được coi là người lính già, không có khả năng cầm súng mà chỉ là lính văn phòng, nhưng với “bên thắng cuộc” ông vẫn là lính cộng hoà, là đối phương, là phe địch. Vì vậy, ông dễ dàng bị họ bắt, nhưng điều đó đã không xảy ra trước 1975.

Sau chiến tranh, cái giá mà một người thuộc “chế độ cũ” phải trả cho cách mạng thực sự rất cao: cải tạo không giam giữ hoặc bị giam giữ, lưu đày, lao động khổ sai, bệnh tật, chết chóc… và gia đình họ phải lao động cật lực để duy trì cuộc sống ở mức tối thiểu. Vào thời điểm đó, chúng tôi chỉ có vài loại lương thực được cấp theo ngày công lao động trong hợp tác xã được quy đổi, thật ít ỏi, đủ ăn để sống dưới mức trung bình – ngô, khoai, sắn; thời đó vùng chúng tôi hầu như  không có lúa gạo, vậy nên muốn có hạt lúa phải quy đổi và điều tiết từ các vùng khác bằng cách tự đi gánh về trụ sở thôn, rồi chia nhau mà dùng.

Tất nhiên ngay cả việc nhận loại lương thực này người dân cũng không được chọn lựa vì đôi khi đó là gạo dự trữ lưu kho đã ẩm mốc, trở màu, nấu cơm hoặc cháo có mùi vị rất khó chịu, chả được thơm tho như mùi tô cháo của thị Nở. Nói chung thời đó chúng tôi ăn bất cứ thứ gì mà hôm nay nhiều người không thể ăn được: bã củ chuối nước giã thành bột để làm bánh, thân cây chuối… hoặc nhiều thứ ngày nay ít người ăn. (Nếu kể lại chuỗi sự việc này thì phải viết ra một cuốn sách).

Ba mẹ tôi cũng cải thiện đời sống bằng cách nuôi heo và gà bằng mọi thứ nguyên liệu phế thải hay tận dụng. Tôi rất thích nhưng quả trứng gà, nó vừa đẹp vừa thơm ngon, hiển nhiên là dinh dưỡng nhiều.

Chúng tôi hầu như không mua gì cả, không có tiền. Hàng phân phối theo tem phiếu đủ xài ở mức tối thiểu và không bận tâm đến tính thẩm mỹ của nó.

Nói chung vào thời điểm đó, cuộc sống của toàn dân ở một đất nước được tuyên truyền là trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội không được tốt lắm về mặt vật chất. Ba tôi là người duy nhất kiếm được tiền nhờ đôi khi làm thuê có trả công bằng tiền; mẹ tôi cũng kiếm được chút tiền lẻ nhờ bán vài thứ nông sản, rau trái củ quả lặt vặt -  thực ra là nhịn ăn để bán lấy tiền mua vài thứ thiết yếu không thể không mua như: dầu hoả thắp sáng, gia vị, đôi dép cho con, sửa chữa nông cụ...

 Nhà tôi có chín anh chị em. Mẹ vừa là lao động chính thứ hai (cùng với ba) vừa là người chăm sóc gia đình, quyết đinh mọi thứ. Cha tôi luôn đi làm, mẹ tôi cũng đi làm nhưng lại lo thêm việc nhà, và cuộc sống của gia đình luôn khó khăn về vật chất, bị đè bẹp bởi nghèo đói mọi mặt, lại thêm cơ chế ứng xử lý lịch của chính quyền nên ba tôi ít khi vắng mặt tại địa phương – nếu vắng nhiều ngày phải báo cáo, giao tiếp với người lạ bị nghi kỵ, dò xét; chúng tôi không được đi học đại học vì lời phê trong lý lịch và xác nhận của chính quyền địa phương là “có cha đi lính cho chế độ cũ”, tôi được biết có người bị phê nặng hơn “cha đi lính cho chế độ cũ và có gây nợ máu với cách mạng” – thôi xong; anh bạn tôi tên Trương T, học xuất sắc, thi đại học 4 lần đều đỗ với số điểm cao nhưng với lời phê ấy thì cuộc đời và chí làm trai đã khép lại, rốt cuộc vì phẫn chí, bế tắc, anh đã treo cổ tự tử. (Nếu kể lại chuỗi sự việc này thì phải viết ra một cuốn sách).

Tuổi thơ của chúng tôi sau 1975 không có nơi nào để có thể vui chơi, tuổi trẻ (của những bọn vướng lý lịch) không có con đường nào rộng mở, tuổi già như ba tôi thì lao động miệt mài và ứng xử thụ động không dám thể hiện…

Tất nhiên bạn bè tôi cũng có thể vui chơi bằng cách nào đó.

Đôi khi, chúng tôi trở thành kẻ cắp thực sự - bẻ ngô hợp tác xã, hốt trộm lúa của tập thể khi đang phơi trên ruộng mà tôi đóng vai trẻ mót lúa – mà dường như một số xã viên hợp tác xã thông cảm với nạn dân nên làm ngơ, cho qua và không xem là tội. Nhưng một số thằng bạn đồng lứa, con cái của những ông bà có công cách mạng nên cậy thế (cho rằng không ai dám tố) thì tệ hại hơn, chúng thành kẻ cắp chuyên nghiệp với các sự nghiệp lẫy lừng thôn xóm như bắt gà, trộm chó, đục tường khoét vách khuân đồ thờ… Trộm nào cũng là trộm nhưng đôi khi một thằng trộm biết sai và áy náy vẫn có quyền khinh bỉ một thằng trộm vô lương – chúng chính là tiền thân của quan tham làm huỷ hoại uy tín thể chế chính trị, là củi của lò đang cháy hôm nay. (Nếu kể lại chuỗi sự việc này thì phải viết ra một cuốn sách).

Khi tôi đã tuyệt giao với “bọn trộm” nói trên thì con đường cho chúng tôi chỉ là đi học và tham gia lao động cùng gia đình, cũng là cho chính mình, dĩ nhiên là ở trường chẳng có trò chơi nào cả, và tôi cũng ít có bạn bè – vì bạn bè phải kết nối trong cuộc chơi chứ không phải miệt mài làm mọt sách.

Dù sao đi học cũng thú hơn lao động, nhưng phải có đôi chân khoẻ để đi bộ mỗi ngày trên 10km đi và về, mùa mưa thì ướt nhem, đôi chân lội bùn tới gối, mùa nắng thì đội trời nóng 40 độ mồ hôi nhễ nhại mong về nhà để ăn và ngủ.

***

Nhưng cái thú nhất của bọn học trò tuổi mới lớn là được ngồi gần hoặc động chạm bạn khác giới của mình, hoặc ngắm tấm lưng phẳng của đứa con gái mình thích có hằn vết dây coóc-xê, hoặc nhìn sợi lông tơ mởn trên tay bạn ấy hoặc tìm cách ngồi thật gần để tận hưởng mùi thơm da thịt của họ… chỉ vậy thôi, và dường như nó thay cho các trò chơi, sân chơi mà chúng tôi không có. Tất nhiên, nhiều đưá trong chúng tôi không thể trì hoãn cái sự sung sướng nên đã nhanh chóng kết thành cặp và chúng trở thành kẻ biết mùi ân ái sớm nhất.

Với tôi, như thế cũng là xa xỉ, sau này, ngay cả khi chúng tôi lớn lên, đi xem phim, ngồi café, ăn quà vặt… cũng là xa xỉ; giải trí hay mặc đẹp cũng là xa xỉ… Mà cũng chẳng thể có tiền để mà xa xỉ.

Sống tử tế đôi khi cũng là xa xỉ dưới mắt “bọn trộm nòi” kể trên.

Vậy là từ một ngôi trường trung học bình thường, chúng tôi học lên cao hơn ở một ngôi trường bình thường khác gắn với các câu ca diễu nhại: “nhất y, nhì dược, tạm được bách khoa, sư phạ bỏ qua” hoặc “chuột chạy cùng sào mới vào cao đẳng”… Nhưng chúng tôi không bận tâm suy nghĩ vê điều đó bởi phía trước là nạn đói/ bớt đi một miệng ăn (mà làm thì như bọn dài lưng tốn vải) trong gia đình càng hay chứ sao, lại rời khỏi mắt “bọn trộm nòi” ở địa phương lại thêm tốt, được đi học nữa… và phía sau là cuộc tổng động viên cho chiến tranh biên giới tây nam, tạm thoát ra/ hay trì hoãn khỏi cuộc đao binh ngày nào hay ngày ấy… (Nếu kể lại chuỗi sự việc này thì phải viết ra một cuốn sách).

Chúng tôi học các môn khoa học xã hội và sau này tôi nhận ra nhiều thứ trong đó là tuyên truyền hơn là sự thật, vài người thầy sau này gặp lại họ cũng xác nhận thế/ mà không xác nhận thì chúng tôi cũng đủ tư duy nhận thức, nhưng cũng có thầy Trần Th ngay lúc giảng các bài học văn chương đã giễu nhại, pha trò để hé mở cho chúng tôi vài chỗ như thế… Lúc ấy, chúng tôi cảm thấy thích thú hơn là hiểu rõ sự thật.

Tôi thích cách một số ông thầy chắp tay sau lưng, vừa đi vừa giảng bài, điếu thuốc kẹp giữa hai ngón tay, miệng thỉnh thoảng nhả những vòng khói đẹp, đôi khi nhắc nhở đứa học trò chưa nghiêm túc bằng động tác búng viên phấn trúng ngay mặt hắn một cách điệu nghệ, chính xác khiến cả lớp thích thú, sau đó là một thoáng thì thầm, xuýt xoa, cười khẽ và nghiêm túc trở lại.

Và giờ đây, khi gõ vào dòng này, tôi nghĩ nếu kể lại chúng thì phải viết ra một cuốn sách… và chắc mẹ tôi, ở nơi nào đó đang nghe tôi kể lại.

Không có nhận xét nào: