Lê Vĩnh Huy - nghi án trong bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Trãi
và "nghi ngờ" trong lời bình của Xuân Diệu
và "nghi ngờ" trong lời bình của Xuân Diệu
Trong “Quốc âm thi tập”, tập thơ Nôm được cho là của
Nguyễn Trãi, “Ba tiêu” được nhắc đến nhiều bởi hình tượng độc đáo của cây chuối
non nhân cách hóa thành một thiếu nữ. Bài này được đưa vào cả sách giáo khoa
môn Văn, và đặc biệt, sau khi được Xuân Diệu phê bình thì nó càng nức tiếng là
tuyệt diệu tình-từ. Về bài thơ này, nhà thơ Xuân Diệu đã “hiểu” được nó nhờ
phương pháp thần giao cách cảm.
Sau đây là lời bình Xuân Diệu trong bài MỘT BÀI THƠ
CỦA NGUYỄN TRÃI: “BA TIÊU”:
Trong 254 bài thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, có
một bài thơ chỉ 4 câu thôi mà tôi trải qua 24 năm, mới dám tự bảo mình rằng gọi
là hiểu. Đó là bài Ba tiêu.
Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm
Tình thư một bức phong còn kín,
Gió nơi đâu gượng mở xem
Từ 1956, lúc bắt đầu phát hiện được trở lại Quốc âm
thi tập, đọc bài Ức Trai tiên sinh viết về cây chuối này, tôi đã rất yêu thích.
Tuy nhiên, sức đọc, trình độ của tôi cũng chỉ mới thấy được cái hay của hai câu
3, 4.
Người đời trước viết trên lụa: tàu lá chuối non kia
màu xanh ngọc thạch, còn cuộn lại như lụa cuốn, như bức thư quý báu trang nhã
viết trên lụa bạch, đó là một bức thư tình e ấp, vậy mời trang phong lưu là
gió, hãy mở thư xem... Dẫn trong bài bình luận, hoặc đọc lên trong các cuộc nói
chuyện, tôi đều chỉ nhấn mạnh vào hai câu dưới, coi hai câu trên hầu như là
không có. Bởi theo tôi nhận thấy, hai câu dưới có hình tượng sáng tạo hơn cả,
đập mạnh vào tâm trí hơn cả. Và bởi, tôi không hiểu hai câu trên, coi là những
câu thơ thường. Mà thường tình, người ta không hiểu một điều gì, thì cứ lờ đi,
là tiện nhất.
Câu thứ hai: “Đầy buồng lạ mầu thâu đêm”, ai có ngờ
lại là câu khó hơn cả, mà cũng “diệu” hơn cả. Bản Trần Văn Giáp phiên âm là mầu
và chú thích: - “Cứ theo chữ Nôm viết ở nguyên bản, cho nên phiên âm là Mầu,
nhưng đáng lẽ là Mùi mới đúng. “Mùi thâu đêm” là mùi hương suốt đêm, chú như
vậy, thì “buồng lạ” tức là buồng chuối chín thơm ngào ngạt. Bản Đào Duy Anh
chú: - “Buồng lạ: chỉ buồng chuối, so với các quả cây khác thì cũng lạ. - Mầu
thâu đêm: chuối chín thơm ngát suốt cả đêm”. Hai lời chú thích đều hiểu “buồng”
là buồng chuối. Và tôi cũng hiểu như thế, chứ không có cách nào khác.
Tuy nhiên, những năm gần đây, tôi suy nghĩ lại, và
bỗng nhận thấy một điều, nhưng tôi thấy không tiện nói ra. Vì không tiện nói
ra, cho nên tôi không dám dây dưa đưa dẫn hai câu đầu. Bởi, nếu giới thiệu cả 4
câu, thì tôi bắt buộc phải góp ý kiến rằng: đây là hai bài thơ chồng lên nhau,
chứ không phải một bài, bởi hai câu đầu nói tới “buồng lạ”, buồng chuối, hai
câu sau thì nói tới lá chuối non. Mà khi cây chuối đã trổ ra buồng, thậm chí
buồng chuối chín, thì nó không còn có thể ra lá non, thậm chí lá non cuốn lại,
được nữa. Như vậy phải là hai cây chuối khác nhau ở trong bài thơ, như vậy là
hai bài thơ chắp vào nhau trong 4 câu, chứ không phải một bài tứ tuyệt, nhất
quán, nguyên khôi. Như vậy thì Ức Trai làm thơ như thế hay sao? Và tôi không
dám “phát hiện” sự này, bởi tôi thấy sự này vượt quá sức suy nghĩ, quá khả năng
hiểu của tôi, cho nên tôi đã không dẫn, không nói hết về hai câu thơ trên.
Đến hôm nay, tôi rất cảm ơn người bạn của tôi, vắng
nhau mấy năm, mới đến chơi nhà tôi, và nhân trò chuyện về thơ Nguyễn Trãi, anh
ấy bảo với tôi: Buồng chuối đâu. Anh lại mách cho tôi: Trong thơ chữ Hán của Ức
Trai, có bài Lãnh noãn tịch, nghĩa là “Chiếu lạnh ấm” (được in trong phần “tồn
nghi” của quyển Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi, Nhà xuất bản Văn hóa, 1962 - anh không
tán thành quyển Nguyễn Trãi toàn tập in lần thứ II đã bỏ hẳn bài này), bài thơ
nói về chiếu, về nệm, có hai câu 3, 4 (dịch nghĩa): Lông mềm, nệm êm, mùi thơm
lọt vào xương; Da nhuyễn chiếu lạnh, hơi mát ngấm vào da thịt. Tác giả của
những câu này có chí khí anh hùng, có tài năng kinh bang tế thế, có tâm huyết,
và còn có xương, có thịt, có da, có một sự xúc cảm rất da thịt, biết hưởng rất
tinh vi bằng cái thân thể của mình, mùa đông khi nằm trên một tấm nệm lông êm
thì “như hương thấm tận vô xương tủy”, mùa hè chỉ lăn mình trên một chiếc chiếu
cói mát rượi, thì khoan khoái như tắm trong hồ ngọc ở cung tiên, sau khi câu 5
của bài thơ đã nói đến “Viện trúc ngày dài nắng đã lui”, thì tiếp đến câu 6:
“Hồng lâu dạ vĩnh giác xuân tư”, nghĩa là: “Lầu hồng đêm thâu cảm thấy có một
mùa xuân riêng mình”, tức là thơ chữ Hán cùng với một tứ với thơ chữ nôm “Đầy
buồng lạ, mầu thâu đêm” đó.
Anh bạn tôi mách cho tôi như vậy, thì tôi bỗng “Ồ” lên
một tiếng và thấy mình bừng sáng hiểu vào sự huyền diệu của cả bài thơ. Tôi
không cần phải “phát hiện” hai bài thơ nào mâu thuẫn nhau hết, mà đây chính là
một bài thơ nguyên khôi, nhất quán, của Nguyễn Trãi làm, tại vì tôi chưa hiểu
nổi, nên mới thắc mắc. Trước hết, trong câu mở đầu: “Tự bén hơi xuân, tốt lại
thêm”, ta hẵng để ý: tại sao Nguyễn Trãi không viết “lại tốt thêm”? “Lại tốt
thêm” thì có vẻ dung tục, không đủ trân trọng đối với chủ từ của câu chẳng qua
theo đà, theo thế, theo thời, mà thêm tốt, còn “tốt lại thêm” tức là: Vốn cái
tốt đã là bản chất rồi. Nay từ lúc bén hơi xuân thì tốt thêm. Sau khi tôi hiểu
được toàn diện, đúng đắn rồi, thì hóa ra cái thần của bài thơ không ở hai câu
3, 4, một hình tượng, mà ở câu 2, một xúc cảm: “Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm”.
Đầy phòng, đầy buồng khuê, là một sự “lạ”. “Mầu” đây,
theo ý tôi, là nhiệm mầu, mầu nhiệm thâu đêm, đồng thời và cũng cần hiểu mầu
như ở trong “đất mầu”. Ôi! Nếu là thơ Ức Trai nói về sự rung động đầu tiên của
giai nhân vào buổi đương thời thì việc ấy có giảm gì uy tín của người anh hùng
dân tộc Nguyễn Trãi? Bao nhiêu nhà thơ lớn trước Nguyễn Trãi ở Á Đông, ở trên
thế giới đã nói và nói một cách trang nhã, sao lại muốn rằng Nguyễn Trãi đừng
nói, dù là nói một cách trang nhã? Sự thật, là Nguyễn Trãi đã nói rồi, câu thơ
chữ Hãn “dạ vĩnh giác xuân tư” (đêm thâu cảm thấy một xuân riêng) bênh vực cho
câu thơ chữ nôm “đầy buồng lạ mầu thâu đêm”, và chữ “lạ” với chữ “mầu” làm cho
câu thơ chữ Nôm còn dào dạt ngạt ngào hơn câu thơ chữ Hán, đến nỗi đầy cả một
buồng. Hơn năm trăm năm sau, hàng cháu chắt của nhà thơ Ức Trai là nhà thơ Hàn
Mặc Tử (1912 - 1940) cũng có một tứ thơ gần với Ức Trai, và đã gộp cả chữ “lạ”
trong thơ chữ Nôm và chữ “xuân” trong thơ chữ Hán của ức Trai: “Chàng ơi, chàng
ơi, sự lạ đêm qua - Mùa xuân tới, mà không ai biết cả”.
Nếu hiểu “buồng” là buồng chuối như tôi đã hiểu, và
như hai nhà phiên âm Trần Văn Giáp và Đào Duy Anh đã hiểu, thì bài thơ lại tách
ra làm hai bài mâu thuẫn nhau một cách vô lý - điều mà nhà thơ Ức Trai quyết
không làm. Và khi đã vào được chữ “diệu” của bài thơ, khi đã hiểu đây là mùa xuân riêng
xuất hiện, thì hai câu cuối đến dính liền một cách thoải mái vào hai câu trên.
Hiểu là một ngôi thứ ba, một “nhà văn” nào đó nói hộ tâm sự cho giai nhân, và
mời hộ gió mở bức thư lá chuối non thì cũng được, tuy nhiên, tưởng tượng một
người thứ ba ở bên ngoài đến làm mối lái trung gian mời hộ gió mở thư tình của
lá, thì vai trò của người mời hộ này cũng khá vô duyên, đã là thư tình thì
chính người viết, người cuộn người gửi lấy bằng cách này hay cách khác cho đối
tượng của mình đọc, cho nên tôi muốn hiểu cả bài tứ tuyệt là một ngôi thứ nhất.
Phía sau cây ba tiêu là một giai nhân tự nói lấy cho mình, đầy phòng ngào ngạt
thâu đêm, chẳng lẽ lại người nào cũng ngoài phòng nói điều ấy, phải là người ở
trong phòng tự nói:
Tự
bén hơi xuân, tốt lại thêm
Đầy
buồng lạ, mầu thâu đêm
Tình
thư một bức phong còn kín
Bức thư
tình của lá: em còn e ấp cuộn lại, còn kín, một cái ghen tuông phong nhụy, ngôi
thứ hai là “gió”, là đối tượng: anh, người mà ta mong mỏi đang ở nơi đâu? Gượng
đây không phải là gượng gạo, mà gượng nhẹ, khẽ khàng: “Gió nơi đâu gượng mở
xem”.
Từ lúc
Quốc âm thi tập được phát hiện lại (1956) đến nay, một bài thơ như Ba tiêu của
Nguyễn Trãi đã trải 24 năm mới chịu gửi cái bí mật thân tình mình cho người bạn
đọc.
(Xuân
Diệu - Kỷ niệm sáu trăm năm ngày sinh Nguyễn Trãi – Hà Nội, 1980)
* * *
Sau
đây là ý kiến của người viết bài:
Ngô Xuân Diệu bình thơ say sưa hùng biện như đang lên
đồng, tuy nhiên ông vẫn rất tỉnh táo, rào chắn kín kẽ: nào “người xưa viết trên
lụa” (để làm tiền đề cho cái ý lá “tình thư e ấp”). Rồi hư cấu ra cả một người
bạn ẩn danh làm nguồn dẫn chứng cho thuyết của ông, qua đó nhét vào nguyên câu
thơ chữ Hán đặng chú thích cho... chữ Nôm “mầu”. Vậy chưa đủ, Diệu còn lôi cả
người quá cố là Hàn Mặc Tử để củng cố cho “phát hiện 24 năm” của mình.
Khí thế cuồn cuộn và cơn mê sảng ngùn ngụt đó dư sức
đè bẹp người yếu bóng vía. Cái bóng của Diệu quá lớn, mình cãi cũng bằng thừa,
thôi thì tôi rón rén lôi một bài thơ khác, cũng vịnh Ba tiêu, nhưng ở tuốt bên
Tàu hồi hơn ngàn năm trước ra tán dóc vậy. Đây chỉ là thêm chút mắm vụn muối
tiêu rải cúng ông thần Trảm Phong thôi nha, mô Phật à!
* * *
Trước hết, xin nói sơ qua vai trò cây chuối trong thơ
văn Tàu cổ đại.
1. Cây chuối, Tàu gọi Ba tiêu 芭蕉,
ngoài ra còn các tên khác là Lục thiên 綠天, Cam tiêu 甘蕉,
Ba tư 巴苴; nó chính là cây chuối xiêm, hay chuối sứ bên ta[3].
Chuối là bạn thảo chí thiết của người dân. Lá chuối to, nên lúc bị mưa có thể
dùng che đầu, khi nắng ráo ra vườn còn có thể dành lót đít; có thể dùng lá
chuối thay mâm chén, gói đựng nắm xôi miếng thịt - và nói nhỏ, có thể dùng cả
vào việc vệ sinh sau bài tiết.
Riêng với văn nhân, chuối lại có ấn tượng độc đáo:
không có hương thơm nồng đượm huệ lan, cũng chẳng sắc thái rạng rỡ hải đường
thược dược, chuối mang phong vận thô sơ điềm đạm riêng đứng góc vườn, trụ thân
bóng loáng màu ngọc lục bảo thanh tân, sắc xanh của chuối khiến người nhìn được
mát mắt yên lòng. Khi mưa rơi gõ trên tàu lá chuối bồm bộp, lúc gió lùa lá
chuối phất phơ man mác đều có thanh vận riêng, mang lại cảm giác êm đềm...
Và nhất là, khác với “người xưa” ở xứ An Nam phú túc
sang chảnh của Xuân Diệu, các thi nhân ở xứ Trung Hoa nghèo khổ xưa kia không
dám viết trên lụa, mà tiện tặn viết luôn trên tàu lá chuối: “Trúc khả tuyên
thi, tiêu khả tác tự” (竹可鐫詩 蕉可作字) - tre có thể khắc thơ, chuối có thể viết chữ. Tàu lá
chuối sau khi được rọc bỏ cuống, phơi trong râm mát cho mềm, sẽ được đặt lên án
thư và chễm chệ đứng vào hàng 14 món văn phòng nhã khí của tao nhân. Mỗi lần
mắc cơn hứng muốn viết chữ đề thơ, người ta mở tàu lá chuối đó trải ra trên án
thư, trực tiếp vẫy bút viết luôn lên lá. Loại “giấy lá chuối” này gọi Tiêu thư 蕉書,
được nhắc đến nhiều trong văn thơ Đường-Tống; với người xưa, mở giấy chuối ra
để đọc là động tác quen thuộc, mang lại cảm giác tiêu sái.
2. Chuối thiết thân làm vậy, nên trong thơ cổ Trung
Hoa, có tới gần 80 bài riêng vịnh cây chuối, còn dựng tứ xài chữ liên quan đến
chuối cũng ngót nghét hơn 450 câu; mỗi chữ, mỗi câu, mỗi bài đều có sắc thái, ý
vị đặc sắc riêng. Trong số đó được nhắc đến nhiều nhất là bài “Vị triển ba
tiêu” 未展芭蕉 của Tiền Hử 錢珝[*] đời Đường, bài
ấy như vầy:
《未展芭蕉》 VỊ
TRIỂN BA TIÊU
冷燭無煙綠蠟幹 Lãnh chúc vô yên lục lạp can
芳心猶卷怯春寒 Phương tâm do quyển khiếp xuân hàn
一緘書劄藏何事 Nhất giam thư tráp tàng hà sự
會被東風暗拆看 Hội bị đông phong ám sách khan
冷燭無煙綠蠟幹 Lãnh chúc vô yên lục lạp can
芳心猶卷怯春寒 Phương tâm do quyển khiếp xuân hàn
一緘書劄藏何事 Nhất giam thư tráp tàng hà sự
會被東風暗拆看 Hội bị đông phong ám sách khan
Tạm
dịch nghĩa: CÂY CHUỐI NON CHƯA TRỔ
[Thân chuối như] ngọn đuốc lạnh không có khói, cây nến màu xanh
Tấm lòng thơm thảo như bởi sợ cái lạnh của mùa xuân [nên còn] cuộn tròn lại
Một phong thư [đó] chất chứa những gì
[Coi chừng] sẽ bị gió xuân lén mở ra xem
[Thân chuối như] ngọn đuốc lạnh không có khói, cây nến màu xanh
Tấm lòng thơm thảo như bởi sợ cái lạnh của mùa xuân [nên còn] cuộn tròn lại
Một phong thư [đó] chất chứa những gì
[Coi chừng] sẽ bị gió xuân lén mở ra xem
Đến đây, ta thấy có điều “mầu nhiệm” động trời: hai
câu thơ kết bài này của Tiền Hử hầu như trùng khớp với hai câu kết bài “Ba
tiêu” của Nguyễn Trãi…
Hay là, có khi nào... ông Trãi ăn cắp thơ của tên Hử
chăng? Tôi không nghĩ vậy. Bởi sau khi Nguyễn Trãi phạm tội, bị tru lục toàn
gia (1442), thì thơ văn của Trãi cũng bị liệt vào loại “tài liệu phản động” nên
hầu như tuyệt tích. Mãi đến 1/4 thế kỷ sau mới sưu tầm lại. Đại Việt sử ký Toàn
thư ghi: “Đinh Hợi, (Quang Thuận) năm thứ 8 (1467). Tháng 3. [Lê Thánh tôn] Ra
lệnh tìm kiếm những di cảo thơ văn của cố Hàn lâm thừa chỉ học sĩ Nguyễn Trãi”.
Thơ văn thời đó toàn chép tay, và việc “sưu tầm” khó thể tránh khỏi tam sao
thất bản; chưa kể khả năng bọn sàm thần muốn làm đẹp dạ vua đã vơ vào chép đại
càng nhiều càng tốt đặng lập công, và bài dịch thơ chuối của Tiền Hử này chưa
biết của ai, đã vô tình được kể thành di cảo của Trãi.
3. Bài “Ba tiêu” này không chỉ là một bản dịch, mà còn
là bản dịch kém cỏi. Câu “Gió nơi đâu gượng mở xem” đã đánh mất chữ “Hội” 會.
Hội ở đây là một phó từ giả định: có khả năng SẼ xảy ra như vậy, như vậy... Từ
chỗ không biết được thiếu sót đó, Xuân Diệu thành ra ngộ nhận và say sưa phóng
bút quá trớn: “... bức thư tình của lá: em còn e ấp cuộn lại, còn kín, một cái
ghen tuông phong nhụy, ngôi thứ hai là ‘gió’, là đối tượng: anh, người mà ta
mong mỏi đang ở nơi đâu? Gượng đây không phải là gượng gạo, mà gượng nhẹ, khẽ
khàng: Gió nơi đâu gượng mở xem” (hết trích). Tôi chịu thua ông Xuân Diệu ở chỗ
này, vì việc động tay động chân “mở ra xem” một thiếu nữ thanh khiết, dù gượng
nhẹ đến mấy cũng là hành vi thô thiển, nhất là trong thơ! Chỗ này phải hiểu đây
là lời chọc ghẹo: nàng hãy coi chừng, kẻo gió xuân sẽ mách lẻo, tò mò mở ra xem
cõi lòng còn phong kín kia.
Đã nắm được tứ thơ đọng lại hàm súc ở câu kết, giờ ta
đọc lại từ đầu bài thơ ví cây chuối còn non với một thiếu nữ thanh tân này.
Câu một: Bốn chữ “lãnh chúc” và “lục lạp” có thể nói
là cửa ải không thể vượt qua cho bất kỳ ai muốn dịch thành thơ bài “Vị triển ba
tiêu” này. Lãnh chúc là ngọn đuốc lạnh, ngọn đuốc mát lạnh đó chính là tả thân
cây chuối. Lục lạp là ngọn nến màu xanh lục, là tả tàu lá chuối màu ngọc lục
bảo ve vẩy trong gió.
Câu hai: Cõi lòng trong trắng thơm thảo kia còn phong
kín bởi e sợ cái lạnh của mùa xuân sẽ thấm đến. Từ bốn chữ Lãnh chúc và Lục lạp
tả phong tư bên ngoài mà dẫn đến một chữ “Phương” có nghĩa là thơm để thăm dò
cõi lòng của nàng gái đẹp.
Chính vì chỗ khó không thể vượt qua của chữ nghĩa, nên
người dịch vô danh kia đã phải phóng tác ra hai câu tối nghĩa “Tự bén hơi xuân
tốt lại thêm, Đầy buồng lạ màu thâu đêm”. Tuy nhiên, chỗ dịch kém đó cũng có
cái hay, vì nó đã giúp cho Xuân Diệu có được chất liệu cho một cơn lên đồng cầu
vong rất mực liêu trai! Không chỉ vậy thôi đâu, còn cái này mới thiệt xui: dù
đã cầu viện đủ thứ pháp thuật màu nhiệm, Xuân Diệu rốt cuộc vẫn không sao hô
biến bản dịch mắc dịch kia thành một chỉnh thể, nghĩa là làm cho hai câu đầu
nhất quán với hai câu cuối như ông tự khoe.
4. Vụ biến thơ Tàu thành thơ Nguyễn Trãi của bài “Ba
tiêu” này, tôi không tin mình là người đầu tiên phát hiện. Xứ ta thiếu gì bậc
túc Nho làu thông kinh sử, trong khi tôi chỉ là tên quê mùa ở hóc bà tó. Huống
chi, ta còn có nguyên cả một cái viện, kêu bằng Viện Hán Nôm, trong Viện đó
nhất định phải có người nhận ra sự “cầm nhầm” thơ Tiền Hử này từ khuya, điều lạ
là chớ thấy một ai lên tiếng. Phải chăng vì trót phong thánh cho Nguyễn Trãi
thành danh nhân tầm cỡ thế giới, nên người ta mắc cỡ, ngại ngùng không dám nhìn
nhận sự thật, trả lại bài thơ cho Tiền Hử? Có mỗi cây chuối còn không dám bứng,
ở đó còn khoe đốt được cả củi tươi, thiệt là xí mứng!
-------
[*] Tiền Hử 錢珝, tự Thuỵ Văn 瑞文; không rõ năm sinh năm mất. Theo “Toàn Đường thi”: Hử sống vào thời Vãn Đường, người đất Ngô Hưng (thuộc tỉnh Chiết Giang). Đỗ tiến sĩ năm 879 (đời Đường Hy tôn). Lúc đầu chỉ được bổ chức quan nhỏ địa phương như Tham quân cho Kinh triệu phủ, Huyện úy ở Lam Điền. Sau được Tể tướng là Vương Đoàn dành cho biệt nhãn, vời về kinh làm Trung thư Xá nhân, phụ trách việc thảo chiếu thư. Đến năm 900 thì Đoàn bị thất sủng, Hử do đó cũng bị liên lụy, phải biếm ra làm Tư Mã ở Mô châu (nay thuộc tỉnh Giang Tây), được ít lâu thì mất. Tác phẩm có Chu trung lục 舟中錄 gồm 20 quyển, nhưng nay chỉ còn lưu lại mỗi 1 quyển (khoảng 110 bài thơ) trong “Toàn Đường thi”.
[*] Tiền Hử 錢珝, tự Thuỵ Văn 瑞文; không rõ năm sinh năm mất. Theo “Toàn Đường thi”: Hử sống vào thời Vãn Đường, người đất Ngô Hưng (thuộc tỉnh Chiết Giang). Đỗ tiến sĩ năm 879 (đời Đường Hy tôn). Lúc đầu chỉ được bổ chức quan nhỏ địa phương như Tham quân cho Kinh triệu phủ, Huyện úy ở Lam Điền. Sau được Tể tướng là Vương Đoàn dành cho biệt nhãn, vời về kinh làm Trung thư Xá nhân, phụ trách việc thảo chiếu thư. Đến năm 900 thì Đoàn bị thất sủng, Hử do đó cũng bị liên lụy, phải biếm ra làm Tư Mã ở Mô châu (nay thuộc tỉnh Giang Tây), được ít lâu thì mất. Tác phẩm có Chu trung lục 舟中錄 gồm 20 quyển, nhưng nay chỉ còn lưu lại mỗi 1 quyển (khoảng 110 bài thơ) trong “Toàn Đường thi”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét