Mộc Nhân dịch từ nguyên tác: “Spring Ahead”, by Annie Finch (1)
Mùa xuân, như bài thơ, làm cho chúng ta trở nên lắng lòng. Các nhà thơ luôn tìm thấy mối quan hệ giữa vẻ dịu dàng mà mạnh mẽ của mùa này. Nó không chỉ là niềm vui về cái mới mà còn nói với chúng ta về sự bất lực trước tạo hoá. Robert Graves được cho là đã nhận xét rằng chỉ có ba chủ đề cho thơ ca - tình yêu, cái chết và sự thay đổi của các mùa - và thơ ca về mùa xuân xử lý tất cả chúng, với nguồn cảm hứng vô tận.
Hãy lướt qua một số bài thơ hay nhất về mùa xuân, từ Sappho và Basho đến Countee
Cullen (2)… Chúng mang đến cảm giác về sự đa dạng và rộng khắp trong thơ ca; làm
phong phú thêm cho chính thơ ca. Margaret Walker (3) coi mùa xuân như một sự trở
về nhà:
“Mùa xuân Mississippi của
tôi/ trái tim yêu thương ấm áp của tôi bừng lên ngọn lửa/ với những chiếc lá
xanh non” (my Mississippi Spring/ My warm loving heart a-fire/ with early
greening leaves).
Neruda (4) đã nắm bắt được
sự đồng cảm của nhà thơ với mùa xuân bằng cụm từ thân mật “cuối cùng thì mí mắt
của phấn hoa cũng mở ra” (at last the eyelids of the pollen open). Hãy xem xét
đoạn thơ đáng nhớ gần gũi “o Sweet Sweet Spoon Earth” của E.E. Cummings (5) với
một trong những câu ngắt dòng thú vị nhất trong tất cả các câu thơ tự do: “Sự
thật/ với chiếc giường tử thần không thể nào so sánh được/ nhịp điệu/ tình nhân
của ngươi/ ngươi hãy hồi đáp họ/ chỉ cần với/ mùa xuân” (True/ to the incomparable/
couch of death thy/ rhythmic/ lover/ thou answerest/ them only with/ spring).
Trong bài “Hoa tử đinh
hương”(Lilacs) của Amy Lowell (6), nhà thơ không biến thành chim họa mi mà thành đất:
“Lá tử đinh hương hình trái tim trên khắp New England/ Rễ của tử đinh hương dưới
tất cả đất của New England/ Tử đinh hương trong tôi vì tôi là người New
England.” (Heart-leaves of lilac all over New England,/ Roots of lilac under
all the soil of New England,/ Lilac in me because I am New England.)
Ở Nhật Bản hàng trăm năm
trước, sức mạnh biến đổi của mùa xuân có thể được cảm nhận thông qua các phương
tiện gây mê tinh tế hơn, đan xen giữa thị giác và khứu giác trong bài thơ haiku
sau đây của Basho:
“Hơi xuân/ trăng dệt/ và
hương mận.” (Spring air/ woven moon/ and plum scent.)
Mùa xuân có thể giống
như một phép thuật. Nó là một mùa được cai trị bởi nữ thần cổ điển của riêng
nó, Flora, như được mô tả trong “On Imagination” của Phillis Wheatley:
“Flora xinh đẹp có thể
tiếp tục lưu danh triều đại của mình/ Và với sự giàu hương hoa của mình, nàng
hãy tô điểm cho đất đai” (Fair Flora may resume her fragrant reign/ And with
her flow'ry riches deck the plain.)
Nhiều thế kỷ sau
Wheatley, sức mạnh siêu nhiên vẫn ăm ắp trong thơ Robert Creeley. Trong bài
“The Door”, ông viết:
“Đầu gối tôi là sắt, tôi
rỉ sét trong sự tôn thờ Ngài/ Người ca hát, viết bài thơ mùa xuân/ Người cứ tiếp
tục đi.” (My knees were iron, I rusted in worship, of You/ For that one sings,
one writes the spring poem,/ one goes on walking.)
Đối với Hafez (7), một nhà
thơ Hồi Giáo Sufi, mùa là một lời nhắc nhở rằng trải nghiệm tâm linh nằm trong
khoảnh khắc: “Đồng cỏ này đang sáng tác câu chuyện về một ngày xuân tháng Năm;
/ Người đàn ông nghiêm túc để tương lai ra đi và chấp nhận cái chết ngay lúc này.” (This
meadow is composing a tale of a spring day in May; / The serious man lets the
future go and accepts the cash now.) - From “The Garden”.
Đối với Gerard Manley Hopkins (8), người đã trở thành một linh mục Dòng Tên, “Mùa xuân” truyền cảm hứng cho một bài thiền rất giống với Hafez:
“Tất cả nước trái cây
này và tất cả niềm vui này là gì?/ Một dòng suối ngọt của trần gian thuở khai
sinh/ Trong vườn địa đàng. – Hãy đón nhận, trước khi bị lừa…” (What is all this
juice and all this joy? A strain of the earth’s sweet being in the beginning/
In Eden garden. – Have, get, before it cloy…)
Mùa xuân cũng là sự thức
tỉnh tâm linh, mùa hành hương. “Lời mở đầu chung” của Chaucer cho Truyện kể
Canterbury, được nhiều thế hệ sinh viên chưa tốt nghiệp đại học (bao gồm cả
tôi) thuộc lòng, đã thiết lập âm hưởng:
“Tháng Tư về với những
cơn gió se/ Tháng Ba khô đã tràn về mọi ngõ…” (Whan that Aprille with his
shoures soote,/ The droghte of March hath perced to the roote …)
Truyền thống về mùa xuân
như một cuộc hành trình đã tồn tại từ rất lâu trước cả Chaucer, phần mở đầu được
viết từ thế kỷ XIV vẫn còn hấp dẫn:
“Mùa chay đến với giai
điệu tình yêu/ Với hoa và chiếc vòng hôn lễ” (Lenten ys come with love to
toune/ With blosmen & with briddes roune) - Anonymous, 1310.
Bất kể những khó khăn của
cuộc sống ở Anh trong thời Trung cổ, rõ ràng là từ thơ ca mùa xuân của thời kỳ
tiền công nghiệp cho thấy mùa xuân luôn tươi đẹp lạ thường. Một trong những bài
thơ mùa xuân yêu thích của tôi, là bài thơ thời Phục hưng sau đây của Thomas Nashe,
nó đưa ta về thời điểm đó:
“Mùa xuân, mùa xuân ngọt
ngào, là vị vua dễ chịu của năm/ Cái lạnh không buốt, chim xinh cất tiếng hót/
Cuckoo, jug-jug, pu-we, to-witta-woo!”
Những từ tượng thanh của
Nashe truyền tải tiếng bập bẹ du dương tràn ngập vùng nông thôn nước Anh từ xa
xưa, trước khi quá trình công nghiệp hóa khiến quần thể tự nhiên suy giảm
nghiêm trọng.
Tự nhiên luôn mới, luôn
màu mỡ, ngay cả trong những nổi loạn, hoan lạc, mùa xuân không ngừng truyền cảm
hứng. Thực ra, thơ xuân nhiều đến nỗi, không giống như thơ các mùa khác, thơ
xuân có thể dễ dàng phân loại theo tháng, mỗi tháng một hương vị riêng.
Thơ tháng Ba táo bạo, sắc
sảo. Những gì tồn tại là đam mê và đặc biệt. Dickinson viết về tháng Ba:
“Tháng ba là tháng mong
đợi/ Những điều chúng ta không biết/ Những nhà tiên tri/ Đang đến”
- bài thơ 48, The Single Hound (March is the month of expectation/ The things
we do not know/ The Persons of prognostication/ Are coming now).
Những bài thơ tháng ba
thường gửi gắm một thông điệp buồn vui lẫn lộn. Đã đến lúc dành cho những bãi
biển gồ ghề, như Elizabeth Bishop viết trong “The End of March”:
“Trời lạnh và có gió, hầu
như không phải ngày thích hợp/ để đi dạo trên bãi biển trải dài đó” (It was
cold and windy, scarcely the day/ to take a walk on that long beach.)
Swinburne, trong “March:
An Ode,” vật lộn với những mâu thuẫn giữa “sự điên rồ và sức mạnh” của tháng:
“Biển không đẹp hơn đất, đêm không đẹp hơn ngày, ngày không đẹp hơn đêm/ Cũng không phải mùa đông đẹp
hơn bão tố mùa xuân…” (That the sea was not lovelier than here was the
land/ nor the night than the day, nor the day than the night/ Nor the winter
sublimer with storm than the spring…)
Tháng ba, chủ nhân của
những cơn gió, người hát rong tươi sáng và là thống soái của những cơn bão đốt
cháy mùa mà chúng tấn công. Tháng ba có thể gập ghềnh và không thể đoán trước,
và khi một nhà thơ coi tháng ba là thời điểm của mùa xuân đáng yêu, vẻ đẹp có thể
cảm thấy mới mẻ đến kinh ngạc. Shakespeare viết trong The Winter's Tale: “hoa
thuỷ tiên vàng/ xuất hiện trước đàn én/ dám mang đi những cơn gió tháng ba tươi đẹp”
(daffodils/ that come before the swallow dares, and take/ the winds of March
with beauty.)
Tất nhiên, tháng 4 lại
là một câu chuyện khác. Tháng này đã được tổ chức, được tôn thờ như đỉnh cao và
tinh hoa của mùa xuân - ít nhất là từ thời Spenser's Shepheardes Calender.
Tháng nào có thể là Tháng thơ Quốc gia (National Poetry Month) ngoài tháng Tư?
Các nhà thơ muốn làm điều gì đó đáng nhớ trong tháng này cần phải cố gắng hơn nữa.
Và tất nhiên, phần thưởng tiềm năng là rất lớn. T.S. Eliot nghĩ về bài thơ
dài tuyệt vời bắt đầu với cái tên “Aprille” khi ông mở đầu kiệt tác đầy
tham vọng của mình bằng từ này?
“Tháng tư là tháng tàn
khốc nhất, mang/ Tử đinh hương ra khỏi vùng đất chết, trộn lẫn/ Ký ức và khát
khao.” (April is the cruelest month, breeding/ Lilacs out of the dead land,
mixing/ Memory and desire.)
Đối với các nhà thơ nữ,
tháng Tư đặt ra một loạt thử thách hoàn toàn khác. Trong nhiều thế kỷ, truyền
thống mục vụ gắn phụ nữ với những bông hoa mùa xuân. Có lẽ vì thế mà ngay cả những
nữ thi sĩ được cho là “đa cảm” ở thế kỷ 20 cũng thích phô trương và chơi đùa với
những phiên bản hoa mỹ của Tháng Tư. Edna St. Vincent Millay xây dựng giọng điệu
không nao núng của cô ấy từ phần mở đầu đối đầu của “Mùa xuân”:
“Vì lẽ gì mà Tháng Tư trở
lại/ Đẹp chưa đủ sao/ Mà cái kết cũng giễu cợt khó quên” (o what purpose,
April, do you return again/ Beauty is not enough/ to its unforgettably mocking
ending).
Alice Moore
Dunbar-Nelson thực hiện một cách tiếp cận trần tục hơn, đắm chìm trong sự vỡ mộng
thành thị của cô ấy với mùa xuân trong “Sonnet” trước khi cô ấy chủ ý dẫn mình
trở lại với “những điều thực tế ngọt ngào”: “Mùa xuân dưới chân bạn / Trong những
ngày tháng Tư đầy hoài niệm…” (spring beneath your feet / In wistful April
days).
Nếu tháng Tư sống động với
truyền thống của vẻ đẹp và sự ngây thơ, thì chất thơ của tháng Năm còn “đầy sinh
khí” (lusty) hơn nhiều, theo cách dùng từ của Thomas Malory. Ngay cả tiếng chim
trong “The Field Sweet-Brier” của Alice Cary cũng thể hiện sự gợi cảm của riêng
nó, thể hiện trong âm nhạc của các dòng thơ: “Mọi con chim đã mang theo lòng biết
ơn/ Hát với giọng hát thiên phú hơn những nơi khác” (And every bird
that took his grateful share,/ Sang with a heavenlier tongue than otherwhere.)
Hình ảnh về đám cưới, cô
dâu, Nữ hoàng tháng 5 và các truyền thống tiền Cơ đốc giáo, chẳng hạn như
Maypole—thường gắn liền với khả năng sinh sản và biểu tượng phồn thực:
“Con phải thu thập
những đoá hoa và nụ, và những vòng hoa sáng đẹp/ Vì con sẽ trở thành Nữ hoàng
tháng Năm, mẹ ơi, con sẽ trở thành Nữ hoàng tháng Năm.” (But I must gather
knots of flowers and buds, and garlands gay,/ For I'm to be Queen o' the May,
mother, I'm to be Queen o' the May.) - Alfred, Lord Tennyson.
Tác phẩm “The May
Magnificat” của Gerard Manley Hopkins kết nối truyền thống về nữ hoàng tháng
Năm với Christian Mary, người, như Hopkins viết, là “mẹ trái đất”.
“Tháng năm là tháng của
Mary, và tôi/ Nàng Thơ ở đó và tự hỏi tại sao…” (May is Mary’s month, and I/
Muse at that and wonder why).
Khi “người mẹ vĩ đại” được
hỏi “Mùa xuân là gì?”, câu trả lời của bà gợi lên mối liên hệ kỳ diệu giữa sự
phát triển tâm linh và thể chất: “Sự phát triển trong mọi thứ”.
Điều nguy hiểm với mùa
xuân, cũng như với bất kỳ phép màu lặp đi lặp lại nào, là khả năng coi đó là điều
hiển nhiên. “Cơn mưa tháng Tư ngọt ngào / Những bông hoa tháng Năm nở rộ”
(Sweet April showers / Do spring May flowers,) - Thomas Tusser viết trong bài
thơ “Một trăm điểm tốt của nghề chăn nuôi” (A Hundred Good Points of Husbandry,
1557). Tuy nhiên, sự ngây thơ nguyên sơ quyến rũ của câu đối quen thuộc trong
môi trường sống tự nhiên của nó, nhiều thế kỷ sau, chúng ta có thể bị cám dỗ để
rũ bỏ phép màu như một sự thật hiển nhiên. Ngay cả bản thân tình yêu cũng không
miễn dịch:
“Mùa xuân, một bông diên
vĩ sống động hơn thay đổi trên chú chim câu/ Mùa xuân, trí tưởng tượng của một
chàng trai trẻ nhẹ nhàng chuyển sang tương tư” (In the Spring a livelier iris
changes on the burnish'd dove;/ In the Spring a young man's fancy lightly turns
to thoughts of love.) - Tennyson, “Locksley Hall”.
Đối với những nhà thơ muốn
hòa nhập trở lại với thực tế cấp bách của mùa, một cách chữa trị là chơi ngược
lại kiểu chữ - làm dịu sự sáo rỗng bằng sự bất ngờ của đau buồn, hài hước. Giả định rằng niềm vui là cảm xúc mặc định của mùa xuân khiến nỗi buồn
mùa xuân trở nên mau bị xua tan. Trong “Adonais,” được viết sau cái chết của
Keats vào năm 1821, Shelley đạt được một khúc ca mùa xuân tinh túy:
“Nỗi buồn làm mùa xuân
trẻ trở nên hoang dã, và cô ấy đã vứt bỏ/ Những nụ hoa đang nhen nhóm của mình,
như thể cô ấy là mùa thu,/ Hoặc chúng là những chiếc lá chết; vì niềm vui của
cô ấy đã bay đi,/ Vì ai mà cô ấy đã đánh thức năm tháng u buồn?” (Grief made
the young Spring wild, and she threw down/ Her kindling buds, as if she Autumn
were,/ Or they dead leaves; since her delight is flown,/ For whom should she
have wak'd the sullen year?).
Một thế hệ sau, Whitman
thực hiện một cách tiếp cận tinh tế hơn, dệt nên mùa xuân và tang tóc chặt chẽ
đến mức chúng dường như không thể tách rời trong bài bi ca của ông dành cho
Lincoln:
“Mùa xuân luôn trở lại,
ba ngôi sao chắc chắn sẽ mang đến cho tôi,/ Hoa tử đinh hương nở rộ và ngôi sao
rủ xuống ở phía tây,/ Và nghĩ về ông ấy, tôi yêu.” (Ever-returning spring,
trinity sure to me you bring,/ Lilac blooming perennial and drooping star in
the west,/ And thought of him I love.)
Đến thế kỷ 20, phải
chăng hương vị buồn vui lẫn lộn của mùa xuân tang tóc đã trở nên quá quen thuộc
đối với cả những nỗi buồn nồng nàn? Nỗi buồn chán mùa xuân của Philip Larkin
trong “The Trees” ngắn gọn, buồn tẻ, nhưng không kém phần buồn bã:
“Cây cối đang mùa nẩy lộc/
Giống như có điều muốn nói ra;/ Những nụ mầm thảnh thơi lan rộng,/ Màu xanh của
chúng là một loại màu buồn.” (The trees are coming into leaf / Like something
almost being said;/ The recent buds relax and spread,/ Their greenness is a
kind of grief.)
“Hồ bơi mùa xuân” (Spring
Pools) của Robert Frost thậm chí còn đáng ngại hơn. Mùa hè được trình bày gần
giống như một cái chết; những hồ nước “lạnh và rùng mình” và sẽ “như những bông
hoa bên cạnh chúng sớm tàn,” hy sinh cho sức mạnh lớn hơn của “những tán lá sẫm
màu” của mùa hè. Với những liên tưởng về bóng tối của mùa xuân đã được thiết lập
vững chắc như vậy, một số nhà thơ về mùa xuân của thế kỷ 20 đã quay trở lại với
sự hay thay đổi và hài hước.
E.E. Cummings, trong bài
thơ có lẽ là nổi tiếng nhất của ông, đã làm cho mùa xuân trở nên tươi mới và lầy
lội bằng cách sử dụng góc nhìn của một đứa trẻ trong “[in Just-]” và nhấn mạnh
những vết nhòe và bóng bay trên tiếng chim hót và hoa. Một bài haiku mùa xuân của
Richard Wright được gắn với một họa tiết khó quên:
“Đến từ rừng,/ Một con
bò đực có một nhánh tử đinh hương/ lủng lẳng trên chiếc sừng.” (Coming from the
woods,/ A bull has a lilac sprig/ dangling from a horn.)
Biết bao nhà thơ, thuộc
nhiều thời đại, văn hóa, sự nhạy cảm, vị trí cá nhân và thẩm mỹ khác nhau, đã
giẫm đạp lên mùa xuân đầy hoa này trước mắt chúng ta, đến nỗi có lẽ đôi khi
chúng ta không muốn viết về mùa xuân hay nhất cũng là điều dễ hiểu. chỉ cần để
chúng ta say sưa một cách cởi mở nhất có thể trong những niềm vui hồn nhiên của
nó. Trong những thời điểm như vậy, có lẽ điều gì đó trong sự đơn giản, đáng tin
cậy và trực tiếp của những dòng này từ bài “Corrina's going a-Maying” của
Herrick, được viết vào mùa xuân của chính ngôn ngữ Anh, có thể nói cho mùa này đối với các nhà thơ cũng như những người
yêu thơ.
--------
Chú thích:
(1). Nguồn nguyên tác: Poetryfoundation
(2). Sappho: (k. 630 – 570 TCN) là một nhà thơ Hy Lạp cổ đại đến từ đảo Lesbos. Sappho được xem là một trong những nhà thơ trữ tình vĩ đại nhất và được tôn vinh như "Nàng thơ thứ mười" hay "Nữ thi thần". Matsuo Bashō (1644 – 1694): là một thiền giả thi sĩ của thời Edo, Nhật Bản. Ông được thừa nhận là người phát triển những câu đầu (phát cú) của thể renga (liên ca). Về sau, Masaoka Shiki hoàn thiện sự tách biệt này thêm nữa và chuyển sang gọi nó là thể haiku (bài cú hay hài cú). Tác phẩm của ông không chỉ nổi tiếng trong phạm vi Nhật Bản mà đã có tầm ảnh hưởng quốc tế. Countee Cullen (1903 – 1946) là một nhà thơ, tiểu thuyết gia, nhà văn thiếu nhi và nhà viết kịch người Mỹ, đặc biệt nổi tiếng trong thời kỳ Phục hưng Harlem.
(3). Margaret Walker: (1915 – 1998) là một nhà thơ và nhà văn người Mỹ. Bà là một phần của phong trào văn học người Mỹ gốc Phi ở Chicago, được gọi là Phục hưng người da đen Chicago. Các tác phẩm đáng chú ý của bà đã giành giải thưởng của Cuộc thi Nhà thơ trẻ Yale Series.
(4). Pablo Neruda (1904 - 1973) là bút danh của Neftali Ricardo Reyes y Basoalto, nhà thơ Chile đoạt giải Nobel Văn học năm 1971.
(5). Edward Estlin Cummings (1894 - 1962), thường viết là E.E. Cummings, là một nhà thơ, họa sĩ, nhà soạn kịch, nhà văn người Mỹ. E. E. Cummings là tác giả của hơn 900 bài thơ, nhiều vở kịch, tác phẩm hội họa và một số tiểu thuyết, được coi là một nhà thơ xuất sắc của thế kỉ 20.
(6). Amy Lawrence Lowell (1874 – 1925) là một nhà thơ người Mỹ theo trường phái tượng trưng. Bà đã giành được Giải thưởng Pulitzer về Thơ năm 1926 sau khi mất.
(7). Hafez - hoặc Hafiz, (1321 – 1390) là một nhà thơ lớn của Ba Tư trung cổ, với những tác phẩm sưu tầm được nhiều người Iran xem là đỉnh cao của Văn học Ba Tư. Các tác phẩm của ông thường được tìm thấy trong gia đình của nhiều người trong thế giới Ả Rập, và họ học thuộc lòng các bài thơ này và vẫn sử dụng chúng dưới dạng các tục ngữ và câu nói.
(8). Gerard Manley Hopkins SJ (1844 – 1889) là một nhà thơ người Anh và là một linh mục dòng Tên. Sau khi mất, ông đã đưa ông vào hàng ngũ những nhà thơ hàng đầu của Anh. Tác phẩm của Hopkins được coi là một trong những tiến bộ văn học độc đáo nhất trong thế kỷ của ông. Nó đã thu hút sự chú ý của những nhà thơ hàng đầu thế kỷ 20 như T. S. Eliot, Dylan Thomas, W. H. Auden, Stephen Spender và Cecil Day-Lewis.
* Dịch và chú thích bởi Mộc Nhân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét