Những gì đang diễn ra đã
trở thành chuỗi “đại họa” đưa Phật giáo lao vào tình trạng khủng hoảng chưa từng
thấy. Từ các vụ nhà sư trác táng đến cơn lốc “buôn thánh, bán thần”, Phật giáo
đang chứng kiến sự hỗn loạn cực độ. Nhà chùa, có nơi, trở thành “cơ sở tôn
giáo”; trong khi “cán bộ tôn giáo”, có chỗ, khoác áo nhà sư; và “Phật tử” thì u
u mê mê ngưỡng vọng vào tà ma, quỷ thuyết…
Chùa nhiều, Phật “đông”
nhưng “quỷ ma” nhan nhản. Những bức tượng Phật “cao nhất Đông Nam Á” và những
ngôi chùa “lớn nhất Đông Nam Á” đã mọc lên trên một quốc gia có những điều tồi
tệ, vốn bị nghiêm cấm trong giáo lý nhà Phật, có lẽ cũng thuộc vào hạng nhất
nhì Đông Nam Á, từ ăn cắp, hiếp dâm, đến thậm chí giết bố mẹ ruột… Cuộc khủng
hoảng đạo đức xã hội, thật mỉa mai cùng cực, lại tỷ lệ thuận với cơn lốc xây chùa
và cơn sốt đi chùa. Chùa chiền đang được “xã hội hóa” thì tại sao giáo lý Phật
giáo đã không được “xã hội hóa” để giúp xã hội tốt hơn, con người sống tốt hơn,
lòng người chân thành hơn, tâm trí chúng sinh bình an hơn? Nếu nhà chùa đang
gieo “nhân” tốt thì tại sao “quả” gặt được lại kinh khủng đến vậy? Luật “nhân-quả”
nào có thể giải thích điều này? Thực tế thì sự bùng nổ chùa chiền đã gieo những
cái “nhân” khác, hơn là “nhân” đạo lý. Khó có thể có cái “quả” tốt, khi mà chính
nhà chùa và nhà sư trong đó, đã tự gạt ra yếu tố đạo đức cá nhân và phẩm hạnh
nhà tu, để trở thành một phần của cái gọi là thị trường “buôn thánh, bán thần”.
“Phật giả”, “giả Phật”; “chùa
giả”, “giả chùa”; “tăng giả”, “giả tăng”. Chỉ có điều này là thật: “Mạt pháp”! “Phật
thật” đang khóc (có lẽ vậy). “Phật giả” vừa đếm tiền vừa cười (hẳn thế). “Bồ tát
thật” đang tụng niệm để Phật giáo thoát khỏi kiếp nạn tai ương. “Bồ tát giả” thì
lần tràng hạt “phổ độ chúng sinh” bằng ngoa ngôn ma mị. Câu hỏi lớn nhất cần được
quan tâm không chỉ là tình trạng “kinh doanh” Phật giáo mà còn là tại sao ngày
càng có nhiều Phật tử không nhìn thấy được “Phật giả” trong những kiến trúc “giả
chùa”? Những hàng hàng lớp lớp người đi chùa không cho thấy Phật giáo đang phát
triển. Mà là ngược lại. Nhang khói càng nghi ngút, dường như, càng che mờ con đường
giác ngộ đích thực mà giáo lý Phật giáo truyền dạy. “Đi chùa viếng Phật” – một
nét văn hóa tôn giáo trang nghiêm gắn liền với văn hóa dân tộc – đã biến thành
một hoạt động “đi mua sắm” để mua đủ các thứ mà “thị trường” ngoài đời không thể
mua, từ giấc mơ, khát vọng, đến danh và “lộc”. “Bồ tát nào “chứng”, “Phật” nào “chứng”?
Cơn lốc xây chùa có thể không bùng nổ nếu những kẻ “buôn thánh, bán thần” không
“nắm bắt” được “tâm lý” và “nhu cầu thị trường”.
Theo Phật học, vị trí của
con người là tối thượng. Con người là chủ nhân của chính mình, và không có một
thực thể hay quyền năng nào cao hơn để định đoạt số phận của nó. Đức Phật dạy: “Người
ta là nơi nương tựa của chính mình, còn ai khác nữa có thể làm nơi nương tựa?”.
Ngài khuyên các môn đệ hãy là “một nơi nương tựa cho chính mình” và không bao giờ
nên tìm nơi nương tựa hay sự giúp đỡ của bất cứ người nào khác. Ngài giảng dạy,
khuyến khích và cổ vũ mỗi người hãy tự mở mang và tìm sự giải thoát cho chính mình,
vì con người có năng lực giải thoát mình ra khỏi mọi ràng buộc, bằng trí tuệ và
nỗ lực riêng. Đức Phật dạy: “Các người nên làm công việc của mình, vì các Đức
Như Lai chỉ dạy con đường mà thôi”. Nếu Đức Phật được gọi là một người “cứu thế”
đi nữa thì cũng chỉ có nghĩa rằng Ngài đã tìm ra và chỉ con đường đi đến Giải
thoát, Niết Bàn. Nhưng chúng ta phải bước trên Con đường ấy bằng chính mình”.
Trong quyển Thấy Phật,
giáo sư Cao Huy Thuần viết: “Ngài ở cùng khắp, Ngài ở chung quanh chúng ta, ai
cũng có thể thấy Ngài nếu tâm sáng, và tùy tâm sáng đến đâu thì thấy Phật rõ đến
đấy. Niệm Phật là làm cho tâm sáng và tâm sáng thì Phật hiện, bởi vì Phật ở cùng
khắp thì tất nhiên Phật cũng ở trong tâm ta... Ai đi sâu vào Phật học sẽ thán
phục mối tương quan sâu thẳm giữa trí tuệ và lòng tin. Trong Phật giáo, lòng
tin luôn dựa trên trí tuệ, và trí tuệ chỉ có thể sáng chiếu đến chân lý nếu được
lòng tin hỗ trợ. Thấy Phật cũng chỉ bình thường vậy thôi. Không phải ở trên ngôi
sao kia, mà ở ngay trong lòng. Ra đời cách đây 2.546 năm, Đức Phật vẫn còn ở
quanh ta để luôn nói với ta tiếng nói từ trong tâm, rằng: Ta đã sinh làm người,
và từ người, chứ không từ đâu khác, từ Ta, từ chính Ta, Ta đã chứng ngộ…”.
Thật khó có thể đòi hỏi
một người “bình dân” “thấy” được Phật như cách ông Cao Huy Thuần “thấy” hoặc nhìn
ra được “Con đường” để đi bằng chính mình như cách Hòa thượng Walpola Rahula viết.
Tuy nhiên, Phật giáo là uyên thâm nhưng Phật tử thì không cần tu học đến uyên bác
như các bậc Tuệ Sĩ hay Lê Mạnh Thát để hiểu thấu đáo Phật pháp. Muốn “thấy Phật”
không phải là điều bất khả. Ai cũng có thể “thấy” rằng, Phật không ở trong chùa;
Phật ở trong tâm. Không Phật tử nào mà không ít nhất một lần nghe như vậy. Chưa
có bất kỳ quyển giáo lý hoặc triết học Phật giáo nào nhắc đến những hành vi mê
tín ngưỡng vọng như là “phương tiện” để được chứng giám sự “thành tâm” hoặc để
giúp tìm đến chân lý tối thượng của đạo Phật. Có thể có những Phật tử tu và hành
cả đời theo những gì giáo lý Phật giáo truyền dụ cũng chưa “gặp” được Phật nhưng
chắc chắn rằng họ sẽ chẳng bao giờ “thấy” được Phật cho dù họ đi chùa bao nhiêu
lần, quỳ lạy tượng Phật bao nhiêu cái và “cúng dường” bao nhiêu tiền. Chừng nào
còn mang đến chùa những thứ mà Phật giáo căn bản khuyên dạy cần phải buông bỏ,
chừng nào mà trí còn loạn và tâm còn “đóng” trước cửa nhà Phật thì làm sao có
thể “thấy” được Phật ngay cả khi tượng Phật sờ sờ trước mắt?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét