Bài này bà Louise Glück đọc hôm 7/ 12 trong buổi lễ nhận giải Nobel.
Xem bản tiếng Anh tại đây: Nobel Prize
Khi còn là một đứa trẻ khoảng năm hay sáu tuổi gì đó, tôi tự tổ chức một cuộc thi trong đầu, để chọn ra bài thơ nào hay nhất thế giới. Có hai tác phẩm vào chung kết - "The Little Black Boy" của William Blake và "Swanee River" của Stephen Foster.
Rảo bước trong phòng ngủ nhà người bà ở Cedarhurst, một ngôi
làng ở bờ nam Long Island, tôi thích lẩm nhẩm trong đầu những bài thơ không thể
quên của Blake hơn là đọc ra miệng, và tôi hát tưởng tượng, khúc hát
ám ảnh, hoang vắng của Foster. Việc tôi tìm đọc Blake thật kỳ bí. Tôi nghĩ một
tập thơ của ông đã lạc giữa những cuốn sách chính trị, lịch sử và tiểu thuyết của
bố mẹ. Nhưng tôi nghĩ tôi đã đọc sách của ông ở nhà bà. Bà tôi không phải người
mê sách. Nhưng bà có cuốn "The Songs of Innocence and of Experience" (Những bài hát ngây thơ và trải nghiệm) và
vài cuốn sách nhỏ in bài hát trong các vở kịch của Shakespeare, nhiều bài trong
số đó tôi đã thuộc lòng. Tôi đặc biệt thích khúc hát trong vở kịch Cymbeline,
dù chẳng hiểu từ nào, tôi thích nghe giai điệu, âm thanh, những câu mệnh lệnh,
chúng kích thích một đứa trẻ rụt rè và hay sợ hãi. "Và mộ các ngươi sẽ được
nổi tiếng". Tôi đã hy vọng thế.
Những cuộc thi kiểu này, vì danh dự, vì phần thưởng lớn lao, dường như là lẽ tự nhiên với tôi; những huyền thoại đầu tiên mà tôi đọc có đủ những điều đó. Từ khi tôi còn nhỏ, bài thơ vĩ đại nhất thế giới với tôi dường như là bài thơ có sự vinh danh lớn lao nhất. Đây cũng là cách tôi và em gái mình được nuôi dạy, để cứu nước Pháp như Joan of Arc, để khám phá ra chất phóng xạ như Marie Curie. Sau này, tôi bắt đầu hiểu những nguy hiểm và hạn chế của tư duy thứ bậc, nhưng trong thời thơ ấu của tôi, việc trao giải vô cùng quan trọng. Một người đứng trên đỉnh núi có thể được nhìn thấy từ rất xa, họ là thứ duy nhất đáng chú ý trên núi. Những người ở dưới thấp hơn thì như thể vô hình (One person would stand at the top of the mountain, visible from far away, the only thing of interest on the mountain. The person a little below was invisible).
Hoặc, trong trường hợp
này, là bài thơ. Tôi cảm thấy chắc chắn rằng Blake đặc biệt biết đến cuộc thi của
tôi, quan tâm đến kết quả của nó. Tôi hiểu ông đã chết, nhưng tôi cảm thấy ông
vẫn còn đâu đây, tôi nghe thấy giọng nói của ông, dù nó đã được nguỵ trang,
đích thị là ông. Tiếng nói ấy, tôi cảm thấy chỉ dành cho tôi, đặc biệt cho tôi.
Tôi nghĩ mình là người được chọn để hưởng đặc ân này; tôi cũng cảm thấy Blake
là người mà tôi khao khát được trò chuyện, cùng Shakespeare, người tôi từng đối
thoại.
Blake là người chiến thắng
cuộc thi. Nhưng sau này tôi đã nhận ra điểm giống nhau giữa hai bài thơ trữ
tình đó; trong quá khứ và hiện tại, tôi bị cuốn vào giọng nói đơn độc của con
người, cất lên giữa những khát khao, nuối tiếc. Và các nhà thơ tôi quay lại đọc
khi lớn lên là những người mà tôi, một người nghe được chọn, được đóng một vai
trò quan trọng trong tác phẩm của họ. Họ không nói với đám đông. Không nói với
chính mình.
Tôi thích thỏa thuận
này, thích cảm giác tin rằng những gì bài thơ truyền tải thật thiết thực và
riêng tư, thông điệp được một linh mục hay nhà phân tích đều tiếp nhận.
Lễ trao giải trong phòng
ngủ phụ nhà bà tôi, dường như sự bí ẩn của nó đã mở rộng mối quan hệ mãnh liệt
mà một bài thơ tạo ra: mở rộng, chứ không phải xâm phạm.
Blake đã nói với tôi về
cậu bé da đen bé nhỏ, ông là nguồn gốc của giọng nói bí ẩn đó. Ông không thể hiện
hình, cậu bé da đen cũng không thể bị nhìn thấy, hoặc bị nhìn nhận một cách hời
hợt bởi cậu bé da trắng thiếu nhạy cảm và khinh người. Nhưng tôi biết điều ông
nói là đúng, rằng tấm thân phàm trần của ông chứa một linh hồn thuần khiết rực
rỡ; tôi biết qua điều mà cậu bé da đen nói, lời kể của cậu về cảm xúc, những trải
nghiệm của cậu, không có sự oán trách, không khao khát trả thù, chỉ có niềm tin
rằng, trong thế giới hoàn hảo mà cậu được hứa hẹn sẽ đến sau khi chết, cậu sẽ
được công nhận như chính con người mình. Và trong niềm vui sướng dâng trào, cậu
nhắn nhủ hãy bảo vệ đứa trẻ da trắng khỏi những tia sáng chói lọi đột ngột. Đây
không phải một hy vọng thực tế, nó đã bỏ qua những điều thực tế, khiến bài thơ
trở nên chua xót và mang thông điệp chính trị sâu sắc. Sự tổn thương và nỗi uất
hận chính đáng mà cậu bé da đen không cho phép mình cảm nhận, sự che chở của mẹ
cậu, đã tác động đến người đọc. Kể cả khi độc giả đó chỉ là trẻ con.
Nhưng việc được công
chúng tôn vinh lại là chuyện khác.
Những bài thơ mà tôi tâm
huyết suốt đời thuộc kiểu tôi đã miêu tả, chúng có mối liên kết thân mật với
người nghe hoặc người đọc - họ nhận mọi tâm sự, những tiếng than thở và đồng cảm.
"Tôi chẳng là ai!", Emily Dickinson nói. "Em cũng chẳng là ai/
Chúng ta là một đôi - đừng nói nhé!". Hay Eliot: "Hãy cùng bỏ đi, anh
và em/ Khi bóng đêm lan trên vòm trời/ Như gã bệnh nhân nằm trên bàn cấp cứu".
Eliot không triệu tập một đội hướng đạo sinh. Ông đang đòi hỏi điều gì đó từ độc
giả. Ngược lại, trong câu thơ, "Liệu tôi có thể sánh em với một ngày
hè?" của Shakespeare, ông không đang so sánh tôi với "ngày hè".
Tôi được phép nghe lỏm chúng, dù bài thơ không đòi hỏi có sự hiện diện của tôi.
Trong những tác phẩm tôi
bị thu hút, tiếng nói, sự phán xét của đám đông vô cùng nguy hiểm. Những câu đối
thoại thân mật làm gia tăng sức mạnh mong manh của nó và tiếp thêm nghị lực cho
người đọc, những người lắng nghe được lời khẩn cầu, tâm sự bức bách ẩn trong
đó.
Chuyện gì sẽ xảy ra với
một nhà thơ kiểu này khi công chúng hoan nghênh và đề cao họ, thay vì chê bai
hoặc phớt lờ. Tôi cho rằng họ sẽ cảm thấy bị đe dọa, áp đảo.
Đây là chủ đề Dickinson
thường đề cập, không dày đặc, nhưng khá thường xuyên.
Tôi đọc Emily Dickinson
say sưa nhất là hồi thiếu niên, thường là lúc đêm muộn, sau giờ đi ngủ, trên
sofa phòng khách.
"I’m nobody! Who
are you?
Are you nobody,
too?"
(Tôi chẳng là ai! Em là
ai?
Phải chăng em cũng chẳng
là ai?)
Và, trong bản tôi đọc
khi ấy, tôi thích nhất câu:
"Then there’s a
pair of us - don’t tell!
They’d banish us, you
know..."
(Vậy chúng ta là một đôi
- đừng nói ra nhé
Họ sẽ lưu đày chúng ta,
em biết không...)
Dickinson đã chọn tôi,
hoặc nhận ra tôi, khi tôi ngồi đó trên sofa. Chúng tôi là một tinh hoa, những
người bạn đồng hành vô hình, sự thật này chỉ chúng tôi biết, và mỗi bên lại chứng
thực cho người kia. Trong thế giới này, chúng tôi chẳng là ai.
Nhưng điều gì sẽ tạo nên
sự lưu đày đối với những người tồn tại như chúng tôi, trong nơi an toàn của
mình, dưới một khúc gỗ? Sự lưu đày là khi khúc gỗ bị nhấc đi.
Ở đây, tôi không nói về
tác động xấu của Emily Dickinson với các cô gái tuổi teen. Tôi đang nói về việc
không tin tưởng vào cuộc sống đám đông hoặc coi đó là cõi mà sự khái quát làm
lu mờ sự chính xác, và sự thật luôn bị giấu diếm. Ví dụ: nếu giọng nói của
Dickinson bị thay thế bởi giọng quan tòa: "Chúng tôi chẳng là ai cả, anh
là ai?". Thông điệp bỗng trở nên nguy hiểm.
Thật bất ngờ, ngày 8/10
(ngày trao giải Nobel Văn học), tôi đã cảm thấy hoảng loạn như tôi từng miêu tả.
Hào quang chói lóa. Tầm vóc lớn lao.
Nhiều người viết mong muốn
tiếp cận nhiều độc giả. Nhưng một số nhà thơ không đề cao sự tiếp cận về mặt
không gian, chẳng hạn như các căn phòng chật kín người. Họ đặt mục tiêu đạt được
nhiều thứ theo tuần tự thời gian, ở thì tương lai, theo một cách sâu xa, những
độc giả sẽ đến, lần lượt từng người một.
Tôi tin rằng khi trao cho
tôi giải thưởng này, Viện Hàn lâm Thụy Điển đã chọn tôn vinh giọng nói thân mật,
riêng tư, mà công chúng đôi khi có thể cùng góp lời để tăng thêm hoặc mở rộng,
nhưng không bao giờ có thể thay thế.
-----------------------
Nguyên tác Anh ngữ:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét