9/10/21

2.197. TƯỞNG NHỚ THẦY PHẠM ĐẠT NHÂN

 


Thầy giáo Phạm Đạt Nhân (1944 - 2021) trước 1975 TN Đại Học Vạn Hạnh SG, Cao học Triết, dạy học ở nhiều nơi. Sau 1975 ông về quê dạy môn Văn THCS tại nhiều trường ở Đại Lộc, Q.Nam. Ông làm thơ, viết tiểu luận phê bình về văn học cùng nhiều bài viết về thế sự, trà dư tửu hậu, văn hóa phương Đông, phật học, triết học phương Tây…

Ông đã từ giã cõi đời vào chiều 8/10/2021 sau hơn 1 năm lâm trọng bệnh - tại SG. 

MN ghi lại mấy dòng này để tri ân, tưởng nhớ ông và cũng để chia sẻ thông tin với đồng môn tại quê nhà.

***

Nhìn lại, tôi thấy mình tạo dựng được chút “vốn liếng tinh thần” lúc đi "làm nghề" nhiều hơn là lúc đi học các cấp. Thời đi học, tôi vẫn là tên cà tàng, thường thường bậc trung. Những năm đầu đi làm ở miền núi, vẫn là gã "amateur", tùy hứng, lãng xẹt, rắc rối... Cho đến khi chuyển về đồng bằng, tôi được gặp thầy Phạm Đạt Nhân - người thầy, người anh, người đồng nghiệp cùng tổ chuyên môn, gần gũi, ân cần. Dường như tôi được nạp nhiều năng lượng tích cực và có "sự biến đổi về chất" khi tiếp xúc, làm việc với ông. Ông không chỉ là "nguồn" cho tôi thị phạm, học tập, vững vàng hơn về mọi mặt, nhất là chuyên môn và ứng xử mà còn giúp tôi trưởng thành và có một vị trí nhất định trong đội ngũ chuyên môn.

Chiều qua 8/10/2021, ông đã từ biệt cõi đời sau hơn 1 năm lâm trọng bệnh - tại SG. Lần cuối tôi gặp ông cách đây 2 năm, khi vợ chồng ông về thăm quê và đến viếng hương song thân tôi.

Tôi ghi lại mấy dòng này và đăng lại một bài viết của ông để tri ân, tưởng nhớ ông và cũng để chia sẻ thông tin với đồng môn tại quê nhà.

Cầu mong anh linh ông an siêu nơi cõi Phật.

***

TRÍ THỨC NGÀY NAY

Phạm Đạt Nhân

Giới trí thức ngày nay chung số phận bi đát cùng giới bình dân . Tiểu thương, nông dân, công nhân ... muốn làm người tử tế, sống đời hiền lương cũng không dễ dàng gì nói chi đến trí thức. Hai chữ trí thức tự nó vốn dĩ cao quý; từ xưa được xếp hàng đầu trong tứ dân (sĩ - nông – công - thương).

Vì sao tình trạng trí thúc ngày nay khốn đốn như vậy? Phải chăng trong một xã hội điên đảo, nhiễu nhương... thì mọi thứ đều không chính danh; và vì bởi không chính danh mới ra nông nỗi !

Ngày xưa những người có may mắn được học hành, hiểu nhiều, biết rộng được gọi là KẺ SĨ. Còn người tầm thường dốt nát, hèn kém thì người ta gọi là THẤT PHU. Cái học ngày xưa là Nho học. Cái học  này hàm chứa đạo học nên còn gọi là Nho giáo. Người thâm Nho gọi là Nho gia. Nho học không đơn thuần là tri thức mà còn là đạo đức và cả chính trị - chính trị diễn dịch từ đạo đức. Dạy đạo đức chính trị là dạy cách làm người (cả cách làm Vua, cách làm quan...). Muốn đạt mục tiêu này thì từ thiên tử cho đến thứ dân phải qua cửa Khổng, sân Trình.

Một khi đã hiển đạt , thành danh rồi thì kẻ sĩ có hai con đường để lựa chọn: xuất và xử. Nếu gặp minh quân thì "xuất" - ra làm quan, gặp hôn quân thì "xử" - lui về ẩn cư mở trường dạy học, bảo tồn sĩ tiết. Dù xuất hay xử thì kẻ sĩ bao giờ cũng chánh tâm thành ý, cương thường, hiếu nghị.

Giữa Vua và kẻ sĩ  có sự tương tác hài hòa. Vua có quyền, kẻ sĩ có học. Cả hai cùng có CHUNG TRÁCH NHIỆM hợp tác để định quốc an dân. Có ba điều mà kẻ sĩ cấm kỵ:

- Nghèo khó không thay đổi (bần tiện bất năng di)

- Giàu có không hoang dâm (phú quý bất năng dâm)

- Đứng trước bạo quyền không khuất phục (uy vũ bất năng khuất)

Kẻ sĩ được đa số dân chúng tin cậy, ca ngợi với nhiều mỹ từ SĨ KHÍ , SĨ HẠNH , SĨ TIẾT…

Nho học đến thời Pháp thuộc được thay thế bởi tây học, chẳng còn ai mặn mà với "cái học nhà Nho" , bởi "mười người đi học chín người thôi". Sau khi hòa bình lập lại, dưới thời VNCH những tinh hoa cổ học nói chung được kế thừa, bảo tồn và bồi đắp...

Ngày nay, Nho học cáo chung, kẻ sĩ không còn, sĩ khí sĩ hạnh cùng chung số phận.

Trí thức ngày nay khác kẻ sĩ ngày xưa ở CÁI HỌC  (nội dung giáo dục). Cái học ngày xưa không tách rời TRI THỨC với ĐẠO ĐỨC. Cái học ngày nay thì khoa học và đạo đức tách thành hai bộ môn. Bộ môn đạo đức diễn dịch từ chính trị; lên đến đại học trở thành giáo trình "tư tưởng HCM".

Phương pháp học tập của Nho sĩ xưa cũng không cưỡng chế, áp đặt: học đi liền với vấn. Trong chữ “học” ghi theo chữ Hán có “bộ môn” ở ngoài và chữ “khẩu” trong. Vào cửa Khổng sân Trình là phải hỏi; hỏi thì phải hỏi cho ra lẽ (thẩm vấn). Suy nghĩ thì suy nghĩ cẩn thận (thận tư). Biện luận thì phải cho rõ ràng (minh biện). Phương pháp giáo dục này hoàn toàn khác với phương pháp áp đặt, cưỡng chế, nhồi nhét buộc người học phải nghĩ một chiều, nhìn một hướng, nói cùng một kiểu  làm cùng một cách... Phương pháp GD này làm thui chột tính sáng tạo, độc lập ... của người học.

Số phận của kẻ sĩ xưa và trí thức nay đều thăng trầm theo từng giai đoạn lịch sử. Dưới thời Tần Thủy Hoàng, nho sĩ đã từng bị chôn sống vì chủ trương "phần thư khanh nho" (đốt sách chôn nho) ; rồi sau đó được phục hưng dưới thời Hán Cao Tổ.

Ở VN thời cải cách ruộng đất, giới trí thức cùng với địa chủ được coi là đối tượng cần phải "đào tận gốc, trốc tận rễ".

Ngày nay trí thức XHCN được nhiều ân sủng để làm nhiệm vụ "gác cổng bảo vệ chế độ".  Do vậy nảy sinh sự phân hóa trầm trọng trong giới trí thức. Khái niệm về hai chữ trí thức không còn chính danh nguyên nghĩa như nó vốn có. Trí thức hiểu đúng danh nghĩa là người “vừa sống đời tỉnh thức, vừa đánh thức mọi người cùng thức”. Người trí thức phải ưu thời mẫn thế, phải luôn thao thức, quan tâm đến nhân tâm thế đạo, đến sự hưng vong của đất nước. Không phải hễ có học thức, có tri thức thì là người trí thức !

Người trí thức cũng có 3 loại: Thiện trí thức, ác trí thức và ngụy trí thức. Ranh giới phân biệt 3 loại này cũng rất mong manh. Trong thời buổi vàng thau lẫn lộn khó lòng phân định ai chân ai  ngụy ai thiện ai ác.

Do môi trường GD, do bối cảnh xã hội... loại ngụy trí thức chiếm đa số. Người ta châm biếm gọi giới này là "trí ngủ" hoặc "trí thức trùm chăn". Trần Tế Xương mỉa mai, chua xót: "Thiên hạ dễ thường đang ngủ cả/ Tội gì ta thức một mình ta". Những trí thức này sống cầu an, bàng quan, thờ ơ, lãnh đạm trước những bất công xã hội, trước tình hình của đất nước...  Loại này chủ trương "không quan tâm đến chính trị". Họ không hề biết đến câu "Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách".

Loại nguy hiểm nhất là loại ác trí thức. Nguy hiểm là vì loại này có tài, nhưng thiếu cái tâm. Sở học, sở đạt, sở kiến của họ không dùng để giúp ích cộng đồng, phục vụ quốc gia dân tộc, mà dùng để mưu cầu danh lợi bằng con đường a dua, xu nịnh. Họ là những cố vấn mẫn cán của quan chức và các nhà đầu tư. Họ là những cánh tay nối dài của quyền lực. Họ là những nhà văn, nhà báo bẻ cong ngòi bút, đổi trắng thay đen. Họ là những nhà giáo không có lòng yêu thương học sinh - vì hiện tại và vì cả tương lai của các em! Giáo sư Lý Linh - người Trung Quốc đã cảnh giác về mức độ nguy hiểm của loại trí thức này. Ông cho rằng loại nảy mang trong đầu rất nhiều điều không tưởng, họ chỉ thực sự hữu dụng khi nằm ngoài quyền lực và giữ vai trò phê phán nhà cầm quyền. Khi có quyền lực trong tay họ sẽ trở nên nguy hiểm, thậm chí thảm họa cho quốc gia. Ông viết "Giới trí thức, với mắt bén, đầu sáng, có thể trở nên độc tài hơn bất cứ ai. Đặt gươm đao phủ vào tay họ, thì kẻ đầu tiên mất mạng sẽ chính là những trí thức khác". Bọn học phiệt thường dùng học vị của mình để phế truất, bôi đen những thiện trí thức. Dân gian có câu "Cả vú lấp miệng em" là vậy. Điển hình như giáo sư lão thành Vũ Khiêu đã lợi dụng chức danh , học vị của mình tiếp tay cho Đỗ Minh Xuân bôi bẩn truyện Kiều. Vừa rồi có một ông giáo sư , hiệu phó trường ĐH KHXHNV tiếp tay với công an đưa một Sv của mình vào tù; một ông hiệu trưởng khác  làm ngơ trước cảnh GV của trường bị một phụ huynh bắt quỳ gối. Loại "trí thức" này có học mà không có hạnh, có sĩ mà không có khí, có phẩm mà không có tiết !

Làm Thầy mà không bảo vệ cho quyền lợi chính đáng cho học trò của mình. Làm quản lý mà không bảo vệ được danh dự cho nhân viên của mình. Làm báo mà tiếp tay với nhà sản xuất đầu độc người dân như trường hợp báo tuổi trẻ ra một quảng cáo thông báo là nước C2, rồng đỏ an toàn cho người sử dụng, trong khi C2 và rồng đỏ có lượng chì vượt ngưỡng cho phép 4 đến 9 lần! Những trường hợp trên đây  rõ ràng là điển hình của loại ác trí thức !

Giới trí thức dù bị phân hóa, khốn đốn cỡ nào cũng vẫn còn giá trị cố hữu của 2 chữ trí thức. Muôn đời trí thức vẫn còn giữ tinh thần của tầng lớp của mình . muôn đời trí thức vẫn là người cầm bó đuốc tinh thần của nhân loại; nắm giữ vai trò dẫn dắt quần chúng; lãnh trách nhiệm lãnh đạo tinh thần của dân tộc . Phải nhớ rằng "Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách" huống chi là sĩ phu !

Không có nhận xét nào: