Bruce Weigl sinh năm 1949, được biết đến là một nhà thơ đương đại có tầm ảnh hưởng lớn ở Mĩ. Ông cũng là một dịch giả, giáo sư đại học, là tác giả của 13 tập thơ riêng và cuốn hồi kí nổi tiếng mang tên Vòng tròn của Hạnh (The Circle of Hanh - 2000). Bruce Weigl nguyên là Chủ tịch Chương trình Viết văn quốc gia Mĩ, Chủ tịch Hội đồng Thẩm định thơ của Giải thưởng Văn học quốc gia Mĩ.
Ông đã nhận được nhiều giải thưởng văn học lớn ở Mĩ và hai lần vào chung khảo Giải thưởng Pulitzer với tập thơ Bài hát bom napan (The Song of Napalm - 1988) và tập thơ Sau mưa thôi nã đạn (năm 2013). Điều đáng chú ý là, cả hai tập thơ này đều viết về cuộc chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, Bruce Weigl
còn được biết đến là một cựu binh từng tham gia chiến tranh, nhưng điều đáng
nói hơn, ông là một trong những người Mĩ đầu tiên trở lại Việt Nam để xoa dịu,
hàn gắn vết thương chiến tranh.
- Tôi đã nghe, đã đọc, đã
biết rất nhiều câu chuyện về ông trong sự kết nối với Việt Nam. Thật vui hôm
nay được trò chuyện với ông. Lần đầu xuất hiện trên tạp chí Văn nghệ Quân
đội, điều trước tiên ông muốn nói với bạn đọc là gì?
+ Chà có vẻ hơi ích kỉ,
nhưng điều đầu tiên tôi muốn nói với độc giả là sau khi dành nhiều thời gian
hơn ở Việt Nam trong suốt ba mươi năm qua, bao gồm ba tháng mùa xuân năm nay ở
thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, tôi đã quyết định muốn dành một nửa thời gian
mỗi năm sống ở Hà Nội. Trong ba mươi năm qua, tôi ngày càng trở nên gần gũi hơn
với nền văn hóa cũng như với nhiều bạn bè của tôi ở đây, và đặc biệt là với cộng
đồng văn học nơi tôi đang hoạt động với tư cách là một dịch giả. Nhưng không chỉ
có những điều đó khiến tôi sống nửa cuộc đời của mình ở Việt Nam. Nó cũng liên
quan đến nhịp độ cuộc sống, điều mà tôi cảm thấy tự nhiên, và còn có những điều
quan trọng đối với mọi người ở đây nữa.
- Chúng ta đang sống
trong những ngày tháng 7. Ở đất nước chúng tôi, 27/7 là ngày tưởng nhớ và tri
ân thương binh, liệt sĩ - những người đã quên mình để bảo vệ Tổ quốc. Chắc hẳn
ông đã biết đến ngày này, có kỉ niệm nào đó ông muốn chia sẻ với chúng tôi
không?
+ Tôi nghĩ một trong những
kỉ niệm sâu sắc nhất trong tôi là lần đầu tiên đến nghĩa trang tại Quảng Trị.
Như bạn biết đấy, trong những ngày sau chiến tranh, người nước ngoài không được
chào đón tại nghĩa trang, và người Mĩ thì bị cấm. Nhưng sau khi chính sách mở cửa
bắt đầu, mọi thứ đã thay đổi. Tôi đã có cơ hội để đến thăm ngay sau khi thay đổi
ấy diễn ra. Đó là một ngày nắng nóng và thật khó để có được một chút bóng râm
nào ở đấy, chỉ có một vài cái cây, nơi mà cuối cùng tôi đã dừng lại và trú
chân. Tôi đã đi bộ hàng giờ từ ngôi mộ này sang ngôi mộ khác và nhận ra rằng một
số người được chôn cất ở đó có thể đã chết trong các trận chiến mà tôi đã tham
gia, bằng một cách nào đó. Tôi có thể cảm nhận được sự hiện diện của những linh
hồn này khi đi ngang qua nghĩa trang, thực sự là tôi đã cảm nhận điều đó rất dễ
dàng. Họ đã hiện hữu đầy tự hào đằng sau những sự hi sinh và gắn kết với nhau bằng
những kí ức về cuộc chiến. Trước khi nhận ra bao nhiêu thời gian đã trôi qua,
tôi thấy mặt trời bắt đầu lặn, bầu trời chuyển thành màu đỏ. Chẳng bao lâu nữa
là đến lúc quay trở lại ga cho chuyến về nhà của chúng tôi. Tôi đã nhìn lại nhiều
hơn một lần qua cửa sổ phía sau. Tôi không biết mình hi vọng sẽ thấy những gì ở
đó.
- Ông dường như là một
trong những người Mĩ đầu tiên đến Việt Nam sau khi chiến tranh kết thúc. Điều
gì đã thôi thúc ông trở lại nơi mà ông từng sợ hãi bởi chiến tranh?
+ Điều gì khiến tôi quay
trở lại Việt Nam sau chiến tranh ư? Thực ra tôi chỉ cần nghĩ về quãng thời gian
ở Việt Nam khi còn là một người lính trẻ để nhớ rằng tôi đã bị cuốn hút sâu sắc
như thế nào đối với nơi này ngay từ đầu. Khí hậu nhiệt đới phù hợp với tôi, một
số người Việt Nam mà tôi quen biết rất ngọt ngào và thân thiện. Điều khiến một
người Mĩ như tôi lúc đầu nghi ngờ, cho đến khi tôi thấu tỏ được sự chân thành của
họ. Tôi luôn nghĩ rằng với tư cách là một người lính trong cuộc chiến tranh của
Mĩ ở Việt Nam, tôi đã tham gia vào một sự sụp đổ lớn về mặt đạo đức và chính
sách đối ngoại của đất nước tôi. Không bao giờ có bất kì lí do chiến lược nào
khiến chúng tôi cần phải xâm lược Đông Nam Á. Tất cả chỉ dựa trên một lời nói dối
và tôi đã giúp duy trì sự dối trá đó bằng cách chiến đấu trong chiến tranh. Tôi
nghĩ rằng bằng cách quay trở lại, tôi có thể làm được một số điều tốt. Có thể bằng
cách này hay cách khác. Đó là những gì đã thôi thúc tôi trở lại, hơn bất cứ điều
gì khác.
- Ông đã trở lại trong
vai trò hàn gắn nỗi đau chiến tranh. Tuy nhiên cũng phải nhấn mạnh rằng ông là
một nhà thơ, một dịch giả dịch thơ Việt Nam ngay từ thời điểm ấy. Thế thì lúc
này, thơ có phải là một sự kết nối, một điểm chung giữa ông và Việt Nam?
+ Ở đây bạn hỏi liệu thơ
có phải là sự kết nối, sự tương đồng giữa tôi và Việt Nam hay không, và tôi
nghĩ tôi hiểu câu hỏi này. Có thể nói rằng thi ca là một dòng sông chảy qua tôi
như cái cách máu của tôi chảy qua tôi vậy, và đó cũng là cách mà nó chảy qua
nhiều bạn bè nhà thơ của tôi ở Việt Nam. Hay cũng có thể nói nó đã chảy qua Việt
Nam cũng theo cách ấy. Công việc và tình bạn lâu dài của tôi với các nhà thơ Việt
Nam cũng như với nền thi ca Việt Nam đã giúp làm phong phú thêm vốn liếng thơ của
mình theo những cách mà tôi không bao giờ có thể làm được. Đó là một sự kết nối
tạo mạch nguồn rất sâu trong tôi. Chiến tranh là điều đầu tiên đưa tôi đến Việt
Nam do bị cuốn theo sự phù phép của một chính phủ đã lừa dối chúng tôi, nhưng
chính thi ca đã dẫn tôi trở lại Việt Nam và điều đó giúp duy trì tình cảm thân
thiết mà tôi dành cho Việt Nam.
- Ông đã biết rất nhiều
nhà thơ Việt Nam, dịch thơ họ, thậm chí họ và ông cũng đã trở thành những người
bạn thân thiết của nhau. Và chắc hẳn không ai hơn ông lúc này thấy được những sự
tương đồng hay khác biệt của hai nền thơ ca Mĩ - Việt?
+ Gần như quá hấp dẫn để
trả lời câu hỏi của bạn về việc các nhà thơ Mĩ và Việt Nam khác, hoặc giống
nhau như thế nào. Tất nhiên, bất kì câu trả lời nào cũng sẽ là một sự khái quát
hóa, nhưng thật buồn cười là đôi khi sự khái quát hóa đó vẫn diễn ra. Có lẽ đó
là cách chúng trở thành khái quát hóa ngay từ đầu. Tôi đã có cơ hội gặp gỡ các
nhà thơ từ khắp nơi trên thế giới và điều làm tôi ngạc nhiên là, mỗi người -
đàn ông và phụ nữ, nhà văn trẻ hay bậc thầy - đều có điểm chung dường như tất cả
đều sẵn lòng rộng mở với những trải nghiệm hỉ nộ ái ố đa dạng nhất, để rồi quay
trở lại và kể cho chúng ta nghe về những kỉ niệm và cảm xúc đó qua các trang
thơ. Các nhà thơ Việt Nam và các nhà thơ Mĩ có khá nhiều điểm chung, và cũng có
những điểm riêng rõ rệt. Ví dụ, các nhà thơ Việt Nam có thể đưa bạn một bài thơ
và nói “tôi vừa viết được một bài thơ hay lắm, đọc đi”, còn các nhà thơ Mĩ thì
chỉ đưa bạn một bài thơ và chờ nghe bạn nói; ở Việt Nam các nhà thơ và các nhà
phê bình cũng có mối quan hệ vô cùng mật thiết, còn ở Mĩ họ luôn có một khoảng
cách nhất định, các nhà phê bình ở Mĩ luôn muốn tạo ra một khoảng cách với người
sáng tác để nhìn nhận tác phẩm một cách trung lập. Nhưng điểm chung quan trọng
nhất của các nhà thơ hai bên là lòng tôn kính sâu sắc khi kiến tạo nên những
con chữ “đúng đắn” (thay vì bẻ cong nó theo một sự lèo lái nào đó) và có sự tin
tưởng rằng một điều đúng đắn là điều hiếm có và đáng giá trên thế giới này.
- Tôi được biết, ông có một
năm tham chiến ở Việt Nam và ông sáng tác thơ sau khi trở về từ cuộc chiến
tranh ấy - những bài thơ đầy ám ảnh về cuộc chiến. Vậy lần đầu tiên ông tiếp cận
với thơ Việt Nam là từ khi nào? Và những ý nghĩ đầu tiên của ông về thơ Việt
Nam khi đó? Bối cảnh lịch sử khi ấy có là rào cản với thơ không, thưa ông?
+ Bạn hỏi không theo cách
của một bạn trẻ thông thường đâu. Bạn đã đánh thức những kí ức trong tôi, nó
đang xáo trộn, tôi sẽ nói theo những điều gì xuất hiện trong tôi lúc này trước
nhé. Tôi tin là bạn đã biết đến Trung tâm William Joiner (1). Chúng tôi đã mua
lại số lượng lớn những tư liệu mà quân đội Mĩ thu được trong chiến tranh ở Việt
Nam. Điều khiến chúng tôi ngỡ ngàng sửng sốt là, phần lớn trong các tư liệu đó
là những bài thơ của những người lính Việt Nam nói lên cảm xúc rất con người
như sự cô đơn, nỗi nhớ nhà, tình yêu đôi lứa… Trong đó có bài thơ Núi đôi xuất
hiện rất nhiều trong nhật kí của những người lính Việt Nam. Theo cách hiểu
thông thường, thơ trong chiến tranh là thơ tuyên truyền. Nhưng Việt Nam là một
ngoại lệ vì có những bài thơ rất hay, đó là những bài thơ nói về con người và
thân phận. Chúng tôi đã lựa chọn và dịch tập thơ Tư liệu từ chiến trường cũng bắt
đầu từ điều này. Thời điểm đó, ở Mĩ chưa từng có thơ Việt Nam và tập thơ đã
cung cấp cái nhìn đầu tiên về Việt Nam một cách chân thực nhất. Có những bài
thơ chúng tôi không thể dịch vì dấu vết chiến tranh. Chúng tôi đã rất sốc bởi
nhận ra cảm hứng chung trong mỗi bài thơ của họ là tính nhân văn, rất con người
trong bối cảnh chiến tranh. Chiến tranh vốn rất phi nhân nhưng cảm thức người
trong thơ của họ đã được tái hiện trong bối cảnh phi nhân ấy. Tập thơ được đón
nhận rất nhiệt tình ở Mĩ vì nó cung cấp góc nhìn khác về chiến tranh Việt Nam,
con người Việt Nam mà trước đó người Mĩ không biết đến. Thông thường người Mĩ
không quan tâm đến thơ ca lắm. Tập thơ như cánh cửa mở ra con đường tiếp cận
thơ Việt Nam.
- Cảm ơn ông vì những
chia sẻ này. Tác giả của bài thơ Núi đôi mà ông vừa nói đến chính là
nhà thơ Vũ Cao, từng là Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội của
chúng tôi đầu thập niên 1970. Chúng tôi có những nhà thơ tên tuổi, là niềm tự
hào của thi ca Việt Nam trong cuộc chiến tranh ấy. Vậy những người lính Mĩ/nhà
thơ Mĩ họ có làm thơ trong chiến tranh không?
+ Ồ! Thật hết sức thú vị
với những gì bạn chia sẻ. Tôi đã biết đến Vũ Cao và bài thơ nổi tiếng nhưng
không hề biết ông ấy từng là Tổng biên tập của tờ tạp chí danh tiếng về văn
chương này của Việt Nam nói chung và Quân đội Việt Nam nói riêng. Chúng ta đang
xuất hiện ở đây phải không nào! Tôi hiểu niềm tự hào ấy của các bạn, và các bạn
hoàn toàn xứng đáng.
Về câu hỏi của bạn, nó thật
sâu sắc và đáng để suy ngẫm, bởi nó gợi lên sự khác biệt từ trong cách đến với
chiến tranh của hai bên. Tôi đã tham chiến giai đoạn 1967-1969, đó là giai đoạn
mà tôi muốn viết nhưng tôi không thể viết. Trở về từ cuộc chiến tranh ấy tôi đã
viết những bài thơ đầu tiên về Việt Nam. Tuy nhiên, có rất nhiều người đã chết
bởi cuộc chiến này nên người Mĩ khi đó thực sự mệt mỏi và không muốn nghe thêm
bất cứ điều gì về sự chết chóc. Và điều đáng nói ở chỗ, những người lính Mĩ chỉ
tham chiến một đến hai năm, trong khi những người lính Việt Nam thì thời gian
trải qua chiến tranh dài hơn rất nhiều nên trải nghiệm của các nhà thơ Việt Nam
cũng sẽ sâu hơn, viết sâu hơn và họ sẽ có những góc nhìn tận cùng hơn. Quân đội
Mĩ không vừa tham chiến vừa làm thơ. Sự khác biệt này có thể do nguyên nhân lịch
sử, văn hóa, lối giáo dục... Và đặc biệt, bối cảnh Việt Nam thường trực phải
nghĩ về chiến tranh. Với người Mĩ, ở thời điểm ấy thì bối cảnh đó là hoàn toàn
mới.
- Theo tôi được biết thì
ngay cả khi còn nhiều khó khăn trong quan hệ Việt - Mĩ vào những năm đầu 1980
thì ông và các nhà thơ Mĩ ở Trung tâm William Joiner đã có những nỗ lực không
ngừng để mở ra con đường đến Việt Nam. Sau năm 1986, các nhà thơ, nhà văn Mĩ và
Việt Nam đã có những sự gặp gỡ, chia sẻ đầu tiên về những vết thương sau chiến
tranh cũng như về thi ca… Ở thời điểm ấy có những sự khác biệt hay cách biệt
nào giữa hai phía không, thưa ông?
+ Ồ, tôi nghĩ là tôi hiểu
ý của bạn muốn biết nhiều hơn thế. Phải nói là khi đó không có sự khác biệt về
bản chất văn chương mà có sự khác biệt trong tiếp nhận. Ban đầu hai bên có một
chút khó khăn, ngại ngùng nhưng sau khi hiểu nhau hơn thì chúng tôi đều nhìn
thơ ca như nó đang là mà không bị ảnh hưởng bởi những yếu tố khác. Các nhà thơ
Việt Nam thường nói trực diện vào đau thương của chiến tranh còn các nhà thơ Mĩ
tiếp cận nó theo cách gián tiếp hơn. Nhưng bởi họ cùng chia sẻ bối cảnh chiến
tranh nên hiểu nhau hơn và có sự kết nối ngay từ đầu.
Lúc đó tôi thấy rõ, thơ
ca Việt Nam đa dạng về đề tài, thể loại. Các nhà thơ có đam mê và đầy sự dấn
thân, điều này khác ở Mĩ. Các nhà thơ Việt Nam dường như chuyên nghiệp hơn, còn
ở Mĩ thì theo kiểu thích thì làm.
Ở Mĩ khoảng những năm
1980 trở đi đã cởi mở hơn về xã hội. Nhiều chủ đề trước đây bị cấm như dân tộc,
chủng tộc, giới tính… thì lúc này đã được đề cập đến với nhiều hình thức đa dạng.
Trước đó chúng tôi có hai cách chủ yếu để biểu đạt trong thơ, một là kể những
câu chuyện nhất định, hai là thơ thi ảnh - những hình ảnh đặt cạnh nhau để nói
gì đó. Nhưng lúc này đã thêm kiểu kết hợp hai hình thức chung.
Hiện nay thì giữa hai nền
thơ của chúng ta đã có sự tương đồng về hình thức và cảm quan do quá trình giao
lưu, tiếp nhận. Tôi phải nói thêm rằng, chiến tranh đã huỷ hoại của cả hai đất
nước chúng ta rất nhiều thứ. Tôi nhắm mắt lại để suy tưởng và tôi hiểu, lúc này
đây tôi đang ngồi trò chuyện cùng bạn về thi ca là điều quá tuyệt vời. Mấy chục
năm trước tôi không tưởng tượng được có một lúc nào đó lại có thể nói chuyện một
cách sòng phẳng và cởi mở về thi ca với một thế hệ khác của Việt Nam như thế
này.
- Tôi nghĩ bởi vì thơ đứng
ngoài mọi rào cản và thơ ở trong mỗi chúng ta.
+ Bạn nói đúng. Và thực tế
đã cho chúng ta thấy, thơ ca đã làm được những điều tưởng như không thể… Thực
ra tôi còn suy nghĩ rất nhiều về việc những người viết trẻ Việt Nam hôm nay vẫn
luôn trăn trở về chiến tranh trong sáng tác của họ.
- Bởi vì hệ lụy của chiến
tranh vẫn còn, vẫn hiện diện rất nhiều xung quanh chúng ta chứ chiến tranh
không hề vô tăm tích khi nó kết thúc. Chiến tranh cũng không đơn thuần chỉ là
bom rơi đạn nổ và văn học thì đâu phải để tả bom rơi như thế nào, và đường bay
của những viên đạn ra sao. Tôi nghĩ văn học là cái nhìn rất sâu vào phía sau những
gì đã/đang/sẽ xảy ra để thấy được cái mà liên tưởng, suy tư của chúng ta chạm tới
là gì…
+ Thật thú vị! Những chia
sẻ của bạn làm tôi nhớ đến cuốn sách Huy hiệu đỏ của lòng dũng cảm của nhà văn
Stephen Crane. Ông ấy chưa từng tham gia cuộc nội chiến ở Mĩ nhưng nó được coi
là một tuyệt tác viết về cuộc nội chiến ấy. Vậy thì đúng là người viết tham chiến
hay không không quan trọng, quan trọng là thể hiện được bản chất của cuộc chiến
đó. Chính xác là có thể tiếp cận từ góc độ của người bình thường không trải
nghiệm thực tế. Tuy nhiên tôi vẫn dành cho thế hệ các bạn sự yêu mến này bởi
tôi nghĩ mọi thứ như bạn nói, nó ở tầng lớp sâu xa mà chỉ những người viết thực
sự mới chạm tới. Tôi còn muốn bổ sung rằng, đó còn là khao khát muốn tìm sự thật
rõ ràng.
- Vậy theo ông, có mối
liên hệ nào giữa thơ ca và chiến tranh, bởi chiến tranh chắc chắn không đơn thuần
chỉ là một đề tài cho thơ?
+ Phải nói rằng, nếu
không hiểu kĩ câu hỏi của bạn nó sẽ lại bị khái quát hóa đấy. Nhưng tôi hiểu mối
liên hệ mà bạn muốn hướng đến ở đây, dựa vào những gì chúng ta đã trò chuyện.
Khi tìm hiểu về lịch sử tôi khá bi quan về vai trò của chiến tranh. Thơ không
thể ngăn cản chiến tranh. Chiến tranh vẫn xảy ra và thơ vẫn tồn tại. Tuy nhiên,
thơ nói lên được sự thật lịch sử mà những hình thức khác không nói lên hoặc khó
làm được. Thơ có tác động mạnh, thúc đẩy chúng ta có trách nhiệm với những gì
chúng ta gây ra trong cuộc chiến. Hơn nữa, thơ ca duy trì được tính toàn vẹn. Động
lực làm thơ mang tính con người chân thật. Với những người đã tham chiến và bị
chấn thương tinh thần không thể chữa lành, anh ta phải chấp nhận và tiếp tục.
Tuy thơ nói lên sự thật nhưng không thể chữa lành, có điều thơ làm ta nhẹ nhàng
hơn. Tôi nói điều này từ trải nghiệm của một người tham chiến. Vẻ đẹp của thơ ở
chỗ nó mang đến bản chất của con người thật nhất, dù trong hoàn cảnh chiến
tranh, nó đối nghịch với sự bạo lực của cuộc chiến.
Lịch sử và chiến tranh
luôn có những khoảng mờ. Thơ ca không phải mảnh ghép để lấp đầy lỗ hổng của lịch
sử mà là cách tiếp cận mang tính thách thức cách hiểu thông thường của chúng ta
về lịch sử nói riêng và thế giới khách quan nói chung.
- Tôi hiểu những chia sẻ
này của ông. Tôi muốn ông chia sẻ kĩ hơn với bạn đọc về việc ông đã gắn bó với
Việt Nam như thế nào kể từ lần trở lại đầu tiên sau chiến tranh? Được biết ông
cũng là một trong những dịch giả có công lớn trong việc đem thơ Việt Nam đến với
bạn đọc ở nước ngoài khi đã dịch hơn 20 tác phẩm thơ Việt Nam. Đáng nói là, việc
dịch thơ thì chưa bao giờ là đơn giản cả.
+ Tôi đã nhận một bé gái
Việt Nam mồ côi làm con nuôi. Tôi đã viết thơ, viết sách cho con bé, đó chính
là cuốn Vòng tròn của Hạnh, và hằng ngày tôi cùng con trò chuyện về Việt
Nam. Bây giờ tôi đã trở thành ông ngoại. Nhưng tôi muốn nói nhiều hơn về hành
trình dịch thơ Việt Nam ba mươi năm qua. Hành trình ấy đã giúp tôi hiểu đất nước
của các bạn và cho tôi xích lại gần hơn với Việt Nam.
Phải khẳng định ngay rằng,
trong quá trình dịch thuật thì việc tìm hiểu về nền văn hóa là quan trọng.
Trong 30 năm dịch thơ Việt tôi đã làm việc với các nhà thơ Việt Nam để hiểu hơn
về văn hoá của các bạn. Ngôn ngữ Việt cần bối cảnh, khi hiểu được nền văn hóa
thì việc dịch thuật mới bắt đầu. Người dịch phải hiểu được bài thơ trong bản gốc.
Nếu không cảm nhận được bài thơ ở ngôn ngữ gốc thì không dịch được. Tôi chọn dịch
khi tôi thực sự hiểu, bám vào nguyên văn trước. Dịch sát nghĩa trước khi dịch
thơ. Sau đó đối chiếu lại với một nhà thơ người Việt. Đối chiếu xem tại sao lại
chọn từ này. Phải là một nhà thơ thì dịch thơ mới tốt. Không phải nhà thơ mà dịch
là kiểu hàn lâm, cơ học.
Ở tập thơ Tư liệu từ chiến
trường, tôi làm việc với người không phải nhà thơ nên rất khó khăn và tôi nghĩ
là dịch chưa được tốt. Từ đây tôi quan tâm đến việc học tiếng Việt. Tôi đã bắt
đầu bằng việc học những phần riêng lẻ như từ vựng, ngữ pháp, cấu trúc cơ học của
ngôn ngữ. Càng học tôi càng nhận ra mình không biết được gì. Bắt đầu từ năm
1990 tôi quay lại Việt Nam hằng năm để học tiếng Việt qua thầy cô.
Tôi đã dấn thân tìm hiểu
về văn hóa Việt Nam vì nhận ra chỉ học ngôn ngữ thôi chưa đủ mà phải hiểu bối cảnh
lịch sử, văn hóa. Năm 2014 tôi cùng Nguyễn Phan Quế Mai dịch Bí mật hoa sen, từ
đây tôi nhận ra phải học văn hóa bởi vì ngôn ngữ tồn tại như một sinh thể trong
môi trường sống, không thể tách rời khỏi bối cảnh văn hóa. Tôi cũng đọc nhiều
tư liệu sách vở để có nhiều góc nhìn và bao quát hơn. Trong các tình huống giao
lưu tôi cũng đặt cho mình những câu hỏi để suy nghiệm về ngôn ngữ nói chung và
văn hóa nói riêng. Ví dụ những khác biệt tinh tế trong tiếng Việt. Đối sánh về
văn hóa và ngữ nghĩa để hiểu hơn, từ đó suy tư và phản biện.
Cũng phải nói thêm rằng,
các bạn có một nền thi ca rực rỡ nhưng quốc tế chưa biết nhiều đến các bạn, đó
là một sự thiệt thòi. Có lẽ còn cần nhiều hơn nữa những nỗ lực để văn học Việt
Nam được cất cánh ra bên ngoài biên giới.
- Vậy với quan sát của
ông thì đâu là hướng đi tích cực trong công việc ý nghĩa này?
+ Bạn biết đấy, số lượng
xuất bản thơ ở Mĩ không bằng Việt Nam. Ở Mĩ việc xuất bản sách là rất khó khăn.
Thường mất hai đến ba năm kể từ khi tác phẩm được gửi đến nhà xuất bản, cho đến
khi nó được duyệt và xuất bản. Người Mĩ quan tâm đến văn học Việt Nam qua các
tác phẩm được dịch, tôi nghĩ cộng đồng đọc sách bằng tiếng Anh cũng vậy.
Vậy thì các bạn nên chú
trọng vào việc chăm sóc dịch giả và mở ra mối quan hệ với những nhà xuất bản uy
tín trên thế giới. Hội Nhà văn Việt Nam đã thành lập Trung tâm Dịch thuật Quốc
tế. Đây là một ý tưởng tuyệt vời nhưng nó cần được mở rộng bao gồm cả việc đào
tạo các dịch giả trẻ để họ chuyển ngữ những tác phẩm mới nhất, đương đại nhất của
Việt Nam.
Theo tôi, dịch giả dù là
người bản địa hay người nước ngoài thì đó cũng nên là một nhà thơ. Làm sao có
thể dịch được thơ khi dịch giả không phải nhà thơ. Chỉ khi là nhà thơ họ mới hiểu
và truyền tải được hết giá trị của thơ ca.
- Cảm ơn ông vì cuộc trò
chuyện ý nghĩa và thú vị này!
* Cảm ơn dịch giả Mai
Trang và nhà thơ Lê Hoà đã giúp đỡ phần chuyển ngữ để bài trò chuyện được trọn
vẹn!
Kim Nhung thực hiện –
Nguồn: Văn nghệ Quân Đội
--------
(*). William Joiner là tên của một người
lính Mĩ gốc Phi làm nhiệm vụ hàng ngày chuyển các thùng chất độc da cam ra máy
bay tại căn cứ ở Guam để chở sang rải ở Việt Nam. Không trực tiếp tham chiến ở
Việt Nam nhưng W. Joiner đã bị nhiễm chất độc da cam và sau đó trở thành người
phản chiến quyết liệt, và đã mất vì chính hậu quả chất độc da cam. Trung tâm
William Joiner được thành lập vào năm 1982 tại Đại học Massachusetts và lấy tên
ông như một biểu tượng. Sứ mệnh của Trung tâm là tranh đấu cho công cuộc chống
chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam và hòa giải lâu dài giữa hai dân tộc, chủ yếu
thông qua các hoạt động văn hóa và văn học nghệ thuật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét