Mộc Nhân
Hiệu ứng văn hóa (Effect
of Culture) có tác động mạnh mẽ đến tâm lý tiếp nhận của bạn đọc cũng như
quá trình sáng tạo của tác giả. Nó mở ra những không gian văn hóa, thẩm mỹ giúp chúng ta hiểu thêm về sự tiếp biến văn hóa và những sáng tạo cá
nhân trong trải nghiệm đọc và viết.
Bài đăng trên Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội
số 993/ Tháng 7 năm 2022
***
Hiệu ứng văn hóa (Effect
of Culture) là một khái niệm không mới và có nhiều nội hàm ý nghĩa. Ở phạm
vi rộng, nó đề cập đến những hiệu ứng và sự tác động của tác phẩm đến đám đông
hoặc tạo thị hiếu công chúng, các khuynh hướng đời sống, xã hội, thậm chí cả
chính trị… Trong phạm vi bài này, người
viết chỉ nói đến những khả năng, tác động từ một sản phẩm văn hóa, nghệ thuật tạo
cảm hứng dẫn đến việc sáng tạo những tác phẩm văn hóa, văn nghệ khác. Nó có thể
là hiệu ứng từ một cái tựa, một nhân vật, một sự kiện, một câu thoại độc đáo… từ
tác phẩm nguồn để sản sinh ra các giá trị mới qua các tác phẩm thuộc thể loại
khác.
***
Hiện tượng này trên thế giới khá phổ biến. Nhà thơ nổi
tiếng người Anh thế kỷ XVII, John Donne (1572 - 1631) thuộc trường phái
nghệ thuật siêu hình, tác giả của nhiều bài sonnet, thơ tình, bi ca và những
thuyết giáo (sermon). Ông đã viết bài thơ For
Whom The Bell Tolls (Chuông nguyện hồn ai) - thực ra đây là một đoạn sermon nổi tiếng. Bài này được nhiều người
dịch, tôi chép lại phần Việt ngữ.
“Không có ai là
một hòn đảo/ hoàn toàn của riêng mình/ Mỗi người là một phần nhỏ của lục địa/ Một
mảnh của đại dương/ Nếu một đảo nhỏ bị biển xóa/ Châu Âu sẽ bé lại/ Cũng như vậy,
nếu đó là một dải đất/ Là quê xứ của bạn/ Hay của bạn bè của bạn/ Mỗi cái chết
đều khiến tôi hao hụt/ Vì tôi là một phần của nhân loại/ Bởi thế, đừng hỏi/
Chuông nguyện hồn ai/ Chuông nguyện hồn anh đấy.”
Từ cái tựa này,
nhiều sản phẩm văn hóa khác lần lượt ra đời như cuốn tiểu thuyết For Whom The Bell Tolls (Chuông Nguyện Hồn
Ai) của nhà văn Mỹ Ernest Hemingway. Ông cũng đã dùng bài thơ của John Donne để
đề dẫn ngay trang đầu cuốn sách của mình. Tiếp đến là bài hát For Whom The Bell Tolls do ban nhạc Úc lừng
danh Bee Gees sáng tác trong bộ phim opera nhiều tập Sonho Meu (tiếng Bồ Đào Nha, nghĩa Việt: Giấc mơ của tôi) - thuộc
thể loại opera soap Brazil
trình chiếu vào năm 1993. Lại có Game show truyền hình For Whom The Bell Tolls của Nhật Bản thu hút hàng triệu lượt xem mỗi
số phát sóng…
Một hiệu ứng văn hóa khác mà tôi muốn chia sẻ là tác
phẩm Norwegian Wood (Rừng Na Uy) – từ
âm nhạc đến văn học và điện ảnh.
Norwegian Wood trước hết là một bài hát nổi
tiếng của ban nhạc rock Anh Quốc - The Beatles do John Lennon sáng tác,
ghi âm và phát hành trong album Rubber
Soul (1965). Rừng Na Uy là
loại rừng trồng cây thông phổ biến ở Na Uy, không có giá trị gì lớn, thường chỉ
để làm nhà bằng ván thông lắp ghép hoặc làm nguyên liệu chế biến các loại đồ gỗ
thông thường. Điều gây tò mò nhất khi nghe bài hát là nhan đề lạ và ca từ hết sức
giản dị. Câu chuyện trong ca khúc toàn là những điều “thường” – thường như gỗ
thông Na Uy.
Mộc Nhân chuyển Việt ngữ phần ca từ tiếng Anh như sau:
“Tôi đã từng có một cô gái hay nói đúng hơn, cô ấy có tôi/ Nàng dẫn tôi về gian
nhà làm bằng gỗ rừng Na uy của mình/ Chẳng phải là thật đẹp hay sao/ Nàng bảo
tôi ở lại và hãy ngồi xuống bất cứ đâu/ Tôi nhìn quanh và thấy chẳng có cái ghế
nào/ Tôi ngồi trên thảm, giết thời gian, uống rượu/ Chúng tôi nói chuyện đến 2
giờ sáng/ Rồi cô ấy nói "đã đến lúc đi ngủ/ Cô ấy nói mình làm việc vào buổi
sáng và cười/ Còn tôi bảo nàng rằng tôi không như thế/ Và tôi lê chân vào ngủ
trong nhà tắm/ Khi tôi tỉnh dậy chỉ còn một mình/ Cánh chim ấy đã bay xa/ Vậy
nên tôi đốt lên một ngọn lửa/ Chẳng phải là đẹp sao/ Ôi gỗ rừng Na Uy”.
Câu chuyện trong bài hát đúng là thường. Thường từ
tính cách con người đến công việc, giao tiếp, ứng xử… đến mức đoạn kết chàng
trai cảm thấy chả hứng thú gì sau đêm tình tự nên buồn ý mà đốt đi vài đồ vật
trong gian phòng. Đốt xong chàng lại thốt lên "chẳng phải là đẹp sao"
(isn't it good).
Cần phải hiểu cái chất "thường" trong câu
chuyện ấy nằm trong bối cảnh thời đại mà tuổi trẻ phương Tây chịu ảnh hưởng của
triết học hiện sinh. Chủ nghĩa hiện sinh (existentialism)
là một khuynh hướng triết học bắt nguồn từ một nhóm triết gia thế kỷ XIX với những
cái tên quen thuộc như Kierkegaard, Jean-Paul Sartre, Nietzsche và Albert
Camus. Chủ nghĩa hiện sinh nhấn mạnh trải nghiệm, hành động, cách sống của cá
nhân mỗi người. Hiểu nôm na, chủ nghĩa hiện sinh cho rằng thế giới này chỉ có
thể tồn tại nếu như mỗi cá nhân đều sống, đều trải nghiệm và đều tư duy theo
cách của mình. Thế giới của một người chỉ có thể tồn tại nếu anh ta tồn tại, và
chính bản thân suy nghĩ, tính cách và việc anh ta nhìn nhận thế giới ra sao làm
nên tính chất thế giới của anh ta. Ở điểm này, chủ nghĩa hiện sinh tôn trọng sự
riêng biệt trong lối sống, tính cách của mỗi cá nhân.
Phần âm nhạc thì bài hát này cũng khá đặc biệt bởi nó
là bài hát duy nhất trong số gần ba trăm sáng tác của mình, The Beatles viết
theo điệu Waltz (Valse). Phần hòa âm
phối khí lạ khiến bài hát thu hút người nghe nhờ sử dụng đàn sitar (nhạc cụ dân tộc Ấn Độ) thay
cho guitar để chạy các
câu lead cho giai điệu. Điều
đó thể hiện ảnh hưởng của âm nhạc Ravi Shankar - Ấn Độ khiến bài hát
là câu chuyện hiện sinh phương Tây nhưng được diễn tả bằng âm sắc phương
Đông.
Giới phê bình nghệ thuật cho rằng “Không nghi ngờ
rằng đây là phần ca từ hay nhất mà The Beatles từng viết giữa làn sóng folk
rock”. Trước đó, The Beatles viết về tình yêu, tình dục thường sử dụng ngôn ngữ
lãng mạn cổ điển kiểu như: Don't let
me down, I'm in love for the first time, All you need is love, Please take hold
of my hand… giờ đây họ muốn viết về những gì nhạt nhẽo, thoáng qua nhưng
cũng gây được cảm hứng. Tạp chí âm nhạc Rolling Stone đánh giá đây là “Sản phẩm
âm nhạc thuần chất, một trong những ca khúc pop hay nhất đương thời” và xếp bài
hát ở vị thứ 12 trong danh sách 100 bài
hát xuất sắc nhất của The Beatles, thứ 83 trong danh sách 500 bài hát vĩ đại nhất mọi thời đại.
Phải chăng nhiều giá trị thẩm mỹ ẩn trong những điều
bình thường. Và nói như William James: “Nghiên cứu thứ bất thường là cách tốt
nhất để hiểu mỹ học của sự bình thường” (To study the abnormal is the best
way of understanding the aesthetics of normal).
***
Hơn hai thập kỷ
sau, vào năm 1987, Haruki Murakami, nhà văn người Nhật, từ niềm cảm hứng với
bài hát này đã viết nên câu chuyện của riêng mình thành tiểu thuyết Norwegian wood. Cuốn truyện nhẹ nhàng,
sâu lắng như tình khúc của John Lennon, lấy bối cảnh nước Nhật thời hậu chiến:
phồn vinh mà cô đơn, thế hệ trẻ lớn lên sau chiến tranh cảm thấy lạc lõng, bế tắc.
Cuốn sách đã lay động trái tim của hàng triệu độc giả trên thế giới và đưa tên
tuổi của tác giả lên vị trí của một trong những nhà văn được yêu thích nhất của
Nhật Bản và thế giới. Tác phẩm có sự pha trộn của rất nhiều yếu tố: tình cảm
lãng mạn, tình dục trần trụi, hoang tưởng thông qua nhiều ẩn dụ cùng những tình
tiết mơ hồ, thực tại và tưởng tượng đan xen, chồng lên nhau.
Nhân vật chính trong truyện Watanabe khi nghe bản nhạc
Norwegian wood của The Beatles đã nhớ
về Naoko, mối tình đầu thời sinh viên 20 năm về trước. Nhưng ký ức về Naoko giờ
đây đã nhạt mờ - dù anh vẫn yêu và nhớ về nàng - khiến Watanabe nghĩ rằng anh
phải viết lại câu chuyện của mình như một cách để hiểu về Naoko và hiểu về
chính con người anh. Các sự việc, nhân vật nối tiếp nhau xuất hiện trong bối cảnh
những sự kiện của nước Nhật đầu những năm 70 như: phong trào bãi khóa, sự xuất
hiện của những hệ tư tưởng, nỗi cô đơn lạc lõng đến tột độ của con người, nhất
là lớp trẻ. Họ chơi vơi trong thế giới của mình vì không tìm được lý tưởng và sự hòa
nhập xã hội nên đã đi theo trái tim, tìm cho mình một lối sống riêng trong đó
có cả tình yêu, tình dục, rong chơi… và ít nhiều mâu thuẫn với những giá trị đã
được định hình trong xã hội. Tình yêu ở đây không có những mối tình lãng mạn cổ
điển mà những mối tình rất thật, rất đời, xen lẫn với tình dục. Nó là điểm tựa
cho những nhân vật cô đơn nhưng lại luôn phức tạp, mâu thuẫn, không thể trốn chạy.
Tình dục được Haruki Murakami thể hiện tinh tế, là phương tiện để giải phóng
con người khỏi những nỗi thất vọng và khỏa lấp cô đơn.
Năm 2010, bộ phim điện ảnh Nhật Bản Norwegian wood do nghệ sĩ người Việt Trần
Anh Hùng làm đạo diễn. Bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết nói trên lại tiếp tục
tạo nên một hiệu ứng văn hóa mới cho cái tựa này thông qua câu chuyện tiểu thuyết
được tái tạo trên màn ảnh cùng với nền nhạc của The Beatles.
Có thể nói trường hợp của bộ ba âm nhạc, tiểu thuyết
và điện ảnh của Norwegian wood đã tạo
nên một hiệu ứng từ không gian tinh thần của tác phẩm mà chỉ có tình yêu và sự
thấu hiểu mới khai quật nên những lấp lánh lạ lùng trong tâm hồn chúng ta và tạo
sự lan tỏa những giá trị mới nhưng có sự gắn kết nhau. Nó khác với trường hợp For Whom The Bell Tolls (Chuông
nguyện hồn ai) chỉ là hiệu ứng cảm xúc từ một cái tựa; còn nội dung các tác phẩm
xuất hiện từ hiệu ứng ấy dường như không có bóng dáng trong nhau.
Và tôi… đến tuổi này vẫn cứ nghe ca khúc Norwegian wood của The Beatles, vẫn cứ đọc
Rừng Na Uy của Haruki Murakami và vẫn
cứ giữ lấy tình yêu lạ lùng của mình.
Nhiều năm nay tôi đã cá cược cùng bạn bè rằng Haruki
Murakami sẽ đạt giải Nobel Văn chương nhưng tôi đã luôn thua cuộc. Nó giống như
là đặt cược vào tình yêu của mình. Dù biết là chưa chắc.
***
Tôi muốn nói thêm vấn đề hiệu ứng văn hóa qua bài thơ Gretel
in Darkness (Gretel trong bóng đêm) của Louise Glück, Nobel Văn chương 2020
- xuất bản lần đầu trong tập thơ The
House on Marshland (1975) của bà.
Chuyện Hansel và
Gretel (Truyện cổ Grimm) kể về hai anh em Hansel và Gretel bị dì ghẻ rắp
tâm đẩy vào rừng cho chết đói. Hai anh em đi lạc vào nhà mụ phù thủy bị mụ rắp
tâm ăn thịt nhưng người em gái là Gretel đã mưu trí giết được phù thủy, cứu anh
trai Hansel và trở về nhà. Glück viết bài thơ để tạo góc nhìn về sự mất mát,
đau buồn, sợ hãi và chấn thương của con người trong các mối xung đột. Trong bài
thơ nhà thơ không kể lại câu chuyện này mà chỉ đề cập đến nỗi kinh hoàng của
con người khi sống với những ký ức đau buồn. Dù thời gian trôi qua đã lâu nhưng
cô vẫn có thể nghe thấy tiếng phù thủy la hét, nó ám ảnh cô và cô tự hỏi tại
sao mình không thể quên những gì đã xảy ra (Why do I not forget?) khi đang sống
một cuộc sống hạnh phúc và an toàn trong ngôi nhà của mình. Một bi kịch khác là
không có ai an ủi hoặc hiểu rằng cô đang phải chịu đựng trạng thái đó. Giờ cô
gánh vác sự ám ảnh đó một mình, mặc dù cô ấy đã làm điều đó cho gia đình.
Mộc Nhân trích dịch một đoạn thơ trong bài: “Đây là thế
giới mà chúng tôi muốn/ Những người có thể đã nhìn thấy chúng tôi chết - đã chết/
Tôi nghe thấy tiếng kêu của phù thủy dưới ánh trăng xuyên qua một mái nhà…/ Tại
sao tôi không thể quên/… Ngay cả anh, anh trai của tôi/ như thể nó chưa bao giờ
xảy ra/ Nhưng vì anh mà tôi giết chóc…/ rừng đen và ngọn lửa như điềm báo.” (Gretel in Darkness) - Louise Glück. Hiệu
ứng văn hóa trong trường hợp này một sự tham chiếu từ văn bản nguồn để khơi gợi
cảm xúc mới.
Không gian của hiệu ứng văn hóa thường là không gian rộng
mà văn bản có thể tác động đến thẩm mỹ công chúng. Nhìn ở góc độ nào đó, nó
cũng là một diễn trình của ý thức liên văn bản (intertextuality) xuất hiện trong nghệ thuật đương đại. Trong thời
đại thế giới phẳng hôm nay, tôi nghĩ rằng hiệu ứng văn hóa của tác phẩm văn nghệ
sẽ có độ lan tỏa sâu rộng hơn trên phạm vi toàn cầu.
***
Quay trở lại với câu chuyện hiệu ứng văn hóa được dẫn
từ ba tác phẩm nguồn nói trên, chúng ta có thể thấy được các mức độ và khả năng
của nó: Hiệu ứng văn hóa tạo ra các giá trị mới nhưng dường như nội dung không
liên quan đến nhau (trường hợp For
Whom The Bell Tolls);
hiệu ứng văn hóa tạo ra các giá trị mới kết nối các không gian nghệ thuật từ
tác phẩm nguồn (trường hợp Norwegian Wood);
hiệu ứng văn hóa tạo ra các giá trị mới vừa kết nối các không gian nghệ thuật từ
tác phẩm nguồn vừa khơi gợi các vấn đề nhân sinh khác (trường hợp Gretel in Darkness - Louise Glück)…
Dầu gì đi nữa, tôi nghĩ rằng nó có tác động mạnh mẽ đến
tâm lý tiếp nhận của bạn đọc cũng như quá trình sáng tạo của tác giả. Nó mở ra
những không gian văn hóa, thẩm mỹ mới giúp chúng ta hiểu thêm về sự tiếp biến
văn hóa và mở rộng những sáng tạo cá nhân trong trải nghiệm đọc và viết.
“Isn't it good” – Điều
đó chẳng phải là đẹp sao (Trích Norwegian
Wood – The Beatles).
----------------
* Nguồn tin bài từ: Vannghequandoi.com.vn
* Đây là bài trên trang cá nhân tác giả, sẽ dẫn link bài trên trang VNQĐ sau.
1 nhận xét:
Bài viết hay có nghiên cứu nhiều và chuyên sâu. Chúc mừng tác giả
Đăng nhận xét