Kinh Thánh (hoặc Thánh Kinh) là từ ngữ để chỉ các văn bản thiêng liêng của nhiều niềm tin khác nhau, nhưng thường là từ các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham. Do Thái giáo và Kitô giáo đều gọi sách thánh của mình là "Kinh Thánh", mặc dù giữa chúng có khác biệt trong các giai đoạn hình thành của các niềm tin Do Thái giáo và Kitô giáo. Nhưng những người lãnh đạo của các cộng đồng này tin đây là các sách được linh truyền từ Thiên Chúa để thể hiện lịch sử uy quyền của mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân của ngài.
1. Một số hiểu lầm về Kinh Thánh
Cho tới nay dường như vẫn
có nhiều người nghĩ rằng Kinh Thánh là sách nói về giáo lý của đạo Ki-tô, thuần
tuý là sách tôn giáo, chỉ dùng cho các tín đồ Ki-tô giáo mà thôi – mà tôn giáo
lại là lĩnh vực nhạy cảm, ở ta quen gọi là “thuốc phiện của nhân dân”, chớ có dại
mà đụng chạm tới – vì vậy ai không theo Ki-tô giáo thì chẳng cần và chớ nên đọc
Kinh Thánh. Cuốn sách gối đầu giường của hơn một tỷ tín đồ và được cả thế giới
không ngừng xuất bản với số lượng nhiều nhất này chưa từng thấy bán tại các hiệu
sách ở ta. Báo in, báo điện tử ngại đăng các bài viết liên quan tới Kinh Thánh.
Thực ra cách hiểu như vậy
là lệch lạc và bất lợi cho mọi người trong việc tìm hiểu văn hóa nhân loại và
văn hóa phương Tây nói chung cũng như văn hóa Ki-tô giáo nói riêng.
Hiểu lầm nói trên có thể
bắt nguồn từ bản thân tên “Kinh Thánh” đem lại ấn tượng “thần thánh”, thần bí.
Đây là cái tên không chính xác, dễ gây hiểu nhầm. Thực ra sách này vốn dĩ có
hai tên gốc: 1) Tên tiếng Hy Lạp là Biblia, nghĩa là “sách”; 2) Tên
tiếng La Tinh là Scriptura, nghĩa là “trước tác” “bài viết”, “bản thảo” –
nói cách khác, nó hoàn toàn không có chút nào ý nghĩa thần thánh. Tiếng Anh đầu
tiên gọi là Biblelh, về sau thống nhất gọi là The Bible, nghĩa là
sách kinh điển.
Tên sai là do ta dùng từ
hoàn toàn theo Trung Quốc. Ngày xưa, khi dịch Cựu Ước toàn thư và Tân Ước toàn
thư ra chữ Hán, người Trung Quốc gán cho hai cuốn sách này cái tên “Thần thánh
điển phạm” (Mẫu mực thiêng liêng) và “Thiên kinh đạo nghĩa” (Đạo nghĩa muôn thủa);
về sau, khi in gộp Cựu Ước và Tân Ước thành một bộ sách, người Trung Quốc ghép
hai chữ thứ hai lại thành “Thánh Kinh”, nghe nặng tính thần thánh, khiến người
ta dễ hiểu lầm sách này chỉ là sách kinh điển của Ki-tô giáo. Quả thật, cái tên
đó khi dịch sang tiếng Việt là Kinh Thánh đã nhuốm đậm màu sắc tôn
giáo, thánh thần, trở nên xa lạ với cộng đồng người không theo tôn giáo.
Đây thật là một sai lầm
lịch sử đáng tiếc nhưng không thể sửa được vì đã quen dùng và cảm thấy thiêng
liêng. Vì thế rất ít người Việt Nam thực sự biết Kinh Thánh là gì, nội dung ra
sao, có ý nghĩa thế nào đối với chúng ta. Đây là một thiệt thòi lớn về tri thức
cho mọi người, nhất là thanh thiếu niên.
2. Sơ lược nội dung Kinh Thánh:
Kinh Thánh gồm hai phần: Cựu
Ước (Old Testament) và Tân Ước (New Testament), do hơn 40 tác giả
viết trong suốt hơn 1.600 năm từ thế kỷ 12 trước CN cho tới thế kỷ 2 sau CN, là
một tác phẩm đồ sộ, bản tiếng Việt dày tới 1.400 trang chữ khổ nhỏ.
Cựu Ước – Giao ước cũ của người Hebrew (nay gọi là Do
Thái) với Thượng Đế, là Kinh điển của người Hebrew, thực tế là bộ sử
của một dân tộc dẫn đầu nền văn hoá nhân loại. Từ 5.000 năm trước, người Hebrew
đã sáng suốt chỉ tin một đấng tối cao duy nhất họ gọi là Jehovah tức
Thượng Đế (God), được hiểu là một sức mạnh siêu nhiên sáng tạo ra tất cả (Tạo
Hóa, the Creator) – khái niệm ấy ngày nay ta chưa hiểu rõ song lại chưa thể phủ
nhận – chứ không thờ một thần thánh nào có nguồn gốc từ người hoặc vật.
Cựu Ước gồm 39 cuốn chia
4 phần: sách Luật pháp (5 cuốn đầu của Moses); sách Lịch sử (12 cuốn); sách
Tiên tri (16 cuốn); sách Văn thơ (6 cuốn). Cựu Ước rất ít màu sắc tôn giáo, nó
chứa đựng vũ trụ quan, nhân sinh quan cổ xưa nhất của nhân loại, là tài liệu vô
cùng quý giá rất đáng nghiên cứu. Sách Cựu Ước nguyên văn viết hầu hết bằng tiếng
Hebrew và một phần bằng tiếng Aramaic (tiếng của người Aram, tức Syria cổ), do
nhiều người viết suốt từ năm 1.200 đến năm 100 trước CN và được truyền miệng từ
rất lâu trước khi viết thành văn. Tuy cổ xưa như thế nhưng Cựu Ước là một văn bản
có thực và tồn tại cho tới ngày nay. Chứng cớ là thời gian 1947–1956, người ta
phát hiện trong các hang động gần Biển Chết (Dead Sea, ở Israel) chứa hơn 900
“sách” có viết chữ (chữ Hebrew, Hy Lạp, Aramaic) bằng dùi nung trên da cừu, gọi
là Sách Cuộn Biển Chết (Dead Sea scrolls), đựng trong các bình gốm
cao. Giám định cho thấy số sách này được làm vào khoảng từ năm 100 trước CN tới
70 sau CN, là những bản sao cổ xưa nhất còn tồn tại của Cựu Ước (nội dung hoàn
toàn như Kinh Cựu Ước hiện sử dụng) và một số kinh điển khác của người Hebrew.
Phát hiện Sách Cuộn Biển Chết có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Tân Ước – Giao ước mới của các tín đồ Ki-tô giáo với Thượng Đế,
nguyên văn viết bằng tiếng Hy Lạp, ra đời một thế kỷ sau khi xuất hiện đạo
Ki-tô, tức rất muộn so với Cựu Ước, và nặng mầu sắc tôn giáo hơn; nó trình bày
cuộc đời và học thuyết của Chúa Jesus. Tân Ước gồm 27 cuốn, chia 3 phần: sách
Phúc Âm (5 cuốn); sách giáo lý (21 cuốn); sách Khải Huyền (1 cuốn). Số trang của
Tân Ước chỉ bằng khoảng gần 1/3 Cựu Ước. Các học giả cho rằng Tân Ước được viết
xong vào khoảng năm 382 sau CN.
Kinh Thánh là một bộ
sách có tính tổng hợp, một bách khoa toàn thư rất hữu ích trong việc
nghiên cứu nhân loại cổ đại về các mặt lịch sử, chính trị, quân sự, pháp luật,
luân lý đạo đức, kinh tế, khoa học kỹ thuật, y học, văn hoá … Chưa dân tộc nào
viết được bộ sử của mình một cách khái quát, hữu ích như Cựu Ước. Bộ sử này
không viết nhiều về đời sống, hành vi của các vua chúa (như Sử Ký của Tư Mã
Thiên), nhưng viết rất kỹ về quá trình di chuyển, các tai họa dân tộc (chiến
tranh, đói kém …), các kinh nghiệm và đời sống của dân tộc này, qua đó đời sau
có thể học được nhiều điều bổ ích.
Cựu Ước ghi lại đời sống
mọi mặt của người Hebrew, từ việc lớn của quốc gia, dân tộc cho tới những chi
tiết rất nhỏ nhặt trong ăn ở, đối nhân xử thế, thậm chí cả trong sinh hoạt tình
dục, nhờ thế giúp hậu thế hiểu chính xác, chi tiết về đời sống tinh thần vật chất
của họ cách đây mấy nghìn năm. Một thí dụ: phương pháp tránh thai phổ biến nhất,
cổ nhất xưa nay là xuất tinh ngoài âm đạo – phương Tây gọi là Onanism –
từ này có nguồn gốc trong Kinh Thánh, chương 38 “Sáng thế ký (Genesis)” “Giuđa
và con dâu là Tama”. (1)
Chưa dân tộc nào biên soạn
và còn lưu giữ được một tác phẩm kinh điển có giá trị như Kinh Thánh phần Cựu Ước.
Thí dụ “Kinh thánh” của văn minh Trung Hoa là sách Luận Ngữ hoàn toàn không có
được tính tổng hợp như vậy, chưa kể còn ra đời sau 7 thế kỷ.
Kinh Thánh còn là một tác
phẩm văn học đồ sộ, di sản quý báu của nhân loại. Trong Cựu Ước có các tác phẩm
văn học trí tuệ, văn học tiên tri và văn học khải huyền, là những sáng tạo của
người Hebrew.
3. Tính chất quan trọng của Kinh Thánh
Kinh Thánh có ý nghĩa
quyết định đối với sự tồn tại của dân tộc Do Thái. Cựu Ước là kinh điển của đạo
Do Thái, nhờ tôn giáo này mà người Do Thái dù hai nghìn năm mất tổ quốc, sống
lưu vong phân tán ở khắp nơi trên thế giới, bị hắt hủi, xua đuổi, thậm chí hãm
hại, tàn sát nhưng vẫn giữ nguyên vẹn được nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống
văn hóa và nhất là họ luôn dẫn đầu thế giới trong các hoạt động trí tuệ. Ngày
ngày cầu kinh, ôn lại lịch sử khốn khổ của dân tộc mình, là cách nhắc nhở người
Do Thái luôn nhớ quá khứ gian nan của mình để cố gắng vươn lên thoát khỏi nghịch
cảnh. Dân tộc nhỏ bé này có đóng góp cho nhân loại nhiều hơn mọi dân tộc khác.
Một thí dụ: người Do Thái chỉ chiếm 0,25% số dân thế giới nhưng họ chiếm 22% tổng
số giải Nobel các loại đã trao trong thời gian 1901-2007; trong đó có 41% giải
Kinh tế, 26% giải Vật lý, 19% giải Hóa học, 28% giải Y học, 13% giải Văn học,
9% giải Hòa bình.
Đối với loài người, tính
chất quan trọng của Kinh Thánh không chỉ thể hiện ở chỗ nó được in đi in lại với
số lượng nhiều nhất thế giới, mà còn ở chỗ được người ta quan tâm đọc và
trích dẫn nhiều nhất – đây là tiêu chuẩn định lượng đánh giá một tác phẩm.
Cho tới nay, Kinh Thánh đã lưu truyền mấy nghìn năm chưa bao giờ ngừng, được dịch
ra 1.800 ngôn ngữ của khắp thế giới, có ảnh hưởng tới hàng tỉ người kể cả người
không theo tôn giáo nào. Riêng nước Mỹ hàng năm in khoảng 9 triệu bản Kinh
Thánh. Trung Quốc đã in hơn 40 triệu bản.
Kinh Thánh là nguồn cảm
hứng và trích dẫn của nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật, lịch sử, triết học
v.v… trên toàn thế giới. Từ bức tranh Bữa
ăn tối cuối cùng của Leonard de Vinci, tập thơ Thần khúc của Dante, các vở kịch của
Shakespeare (vở Hamlet trích dẫn Kinh Thánh nhiều nhất), cho tới tiểu thuyết Sống lại của Tolstoy, …vô số tác phẩm
văn học nghệ thuật đều lấy nguồn từ Kinh Thánh. Các trước tác của Karl Marx và
Engels trích dẫn Kinh Thánh hơn 300 lần, liên quan tới hơn 80 nhân vật trong
đó. Tại Trung Quốc, Lỗ Tấn, Tào Ngu, Quách Mạt Nhược, Mao Thuẫn … đều trích dẫn
Kinh Thánh. Ở Việt Nam, chúng ta thường xuyên kỷ niệm lễ Phục sinh, Giáng sinh
…, tiểu thuyết, sách báo ta thường nói A-đam, Ê-va, Chúa,… tất cả đều có nguồn
gốc từ Kinh Thánh.
Bởi vậy nếu không
hiểu Kinh Thánh thì sẽ rất khó tìm hiểu văn minh phương Tây – nền móng của
văn minh hiện đại, cũng rất khó hiểu về dân tộc Do Thái. Không đọc Kinh Thánh
thì tất nhiên sẽ dễ nói, viết sai về các điển tích đó. Rõ ràng tất cả mọi người,
nhất là người làm công tác văn hóa văn nghệ, giáo dục, xã hội … đều nên đọc
Kinh Thánh.
-----------------------
(1) Dân Hebrew có tục chị dâu góa chồng mà chưa có con thì được quyền lấy một trong các em trai của chồng. Giuđa (cháu nội tộc trưởng Abraham) bảo con trai thứ hai của mình là Onan : Con hãy ngủ với chị dâu con (là Tama) để làm tròn bổn phận em chồng – sinh người nối dõi cho anh con (anh của Onan là Êrơ do độc ác đã bị Thượng Đế Jehovah giết). Onan biết đứa con nối dõi ấy sẽ không thuộc về mình nên khi “ngủ” với Tama đã cố ý làm rơi tinh dịch ra ngoài. Thượng Đế coi việc đó là tội ác nên đã giết Onan (trang 45 Kinh Thánh, United Bible Societies, bản tiếng Việt 1995, ở đây có sửa lại văn cho dễ hiểu). Từ Onanism bắt nguồn từ Onan – tên người có sáng kiến dùng cách tránh thai ấy.
----------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét