17/10/24

3.302. MỘT TIỂU LUẬN VỀ ANNE CARSON

  Giải Nobel Văn học 2024 đã được Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố cho Han Kang, nữ tác giả Hàn Quốc. Trước đó, nhiều tên tuổi đã được cá cược, dự đoán (hoặc đoán mò) trên các diễn đàn “Nicer Odds”, “Nobel Prize Literature Speculation”… Tôi đã cá cược cho Anne Carson (1950) – tác giả nữ, là nhà thơ, nhà viết tiểu luận, giáo sư Văn học cổ điển và dịch giả người Canada – và tất nhiên trượt cá cược.


Theo các nhà nghiên cứu văn học: “Carson đã tạo nên một bước đột phá lớn, khơi dậy cả sự ghen tị và ngưỡng mộ” (Carson has been cutting a large swath, inciting both envy and admiration). Carson là "một triết gia về nỗi thống khổ" (a philosopher of heartbreak). Nhiều tác phẩm của bà dường như phi thể loại, trong đó có sự kết hợp giữa tiểu thuyết, thơ, tiểu luận – cổ điển và hiện đại, nó “được thiết kế lại cho một đối tượng hoàn toàn mới, cuối cùng nó đã làm choáng váng các nhà thơ” (redesigned for an entirely new audience, it finally stunned the poets). Những sáng tạo trong tác phẩm của bà cho thấy bà là “một trong những người có khí chất thông minh kỳ lạ nhất đang hoạt động trong nền văn học đương đại" (one of the most idiosyncratic intelligences at work in contemporary literature).

***

Anne Carson không được xướng danh cho Giải Nobel Văn học 2024 nhưng bà vẫn là cây bút nổi tiếng của Văn học đương đại thế giới.

Tôi dịch và lưu lại một bài viết về bà trên trang Poetryfoundation.

ANNE CARSON

Anne Carson là một nhà thơ, nhà viết tiểu luận, giáo sư Văn học cổ điển và dịch giả người Canada. Daphne Merkin, nhà phê bình người Mỹ, viết: “Trong thế giới nhỏ bé của những người theo kịp thơ ca đương đại Carson đã tạo nên một bước đột phá lớn, khơi dậy cả sự ghen tị và ngưỡng mộ”. Carson đã giành được cả lời khen ngợi của giới phê bình và lượng độc giả rộng rãi trong suốt sự nghiệp xuất bản các phẩm “phi thể loại” (unclassifiable) của mình.

Ngoài nhiều bản dịch được đánh giá cao của các tác giả cổ điển như Sappho và Euripides, và bản dịch bộ ba An Oresteia (2009), bà đã xuất bản các bài thơ, bài luận, lời nhạc kịch, phê bình văn xuôi và tiểu thuyết thơ thường xuyên vượt qua các phân định thể loại (unclassifiable). Merkin gọi bà là “một trong những người bắt chước vĩ đại” - thơ của bà cũng có thể làm tan nát trái tim và bà thường xuyên viết về tình yêu, ham muốn, khao khát tình dục và tuyệt vọng. Luôn là một nhà thơ đầy tham vọng bất kể chủ đề hay thể loại hay phi thể loại (unclassifiable), Merkin đã viết về tác phẩm The Beauty of the Husband của Carson, "Tôi không nghĩ có một cuốn sách nào kể từ Life Studies của Robert Lowell đã thúc đẩy nghệ thuật thơ ca một cách triệt để như Anne Carson đang thực hiện."

Bà đã nhận được nhiều danh hiệu và giải thưởng, bao gồm học bổng từ Quỹ Guggenheim, Quỹ MacArthurViện Hàn lâm Hoa Kỳ tại Berlin. Bà cũng đã nhận được Giải thưởng Văn học Lannan, Giải thưởng Pushcart và Giải thưởng Thơ Griffin.

***

Carson sinh ra tại Toronto, Ontario vào năm 1950. Một cuộc gặp gỡ thời trung học với một giáo viên dạy tiếng Latin, người đã đồng ý dạy bà tiếng Hy Lạp cổ trong giờ ăn trưa, đã dẫn đến việc bà say mê theo đuổi văn học cổ điển và văn học Hy Lạp, những ảnh hưởng vẫn còn in đậm trong tác phẩm của bà cho đến tận bây giờ. Carson đã theo học tại Đại học Toronto, mặc dù bà đã bỏ học hai lần trước khi lấy bằng Cử nhân, Thạc sĩ và Tiến sĩ về Văn học cổ điển. Carson đã giảng dạy tại nhiều trường đại học ở cả Hoa Kỳ và Canada, bao gồm McGill và Đại học Michigan.

Sự nghiệp xuất bản của bà bắt đầu với Eros the Bittersweet: An Essay (1986), tác phẩm cũng thiết lập phong cách của Carson khi mô phỏng các tác phẩm của mình theo văn học Hy Lạp cổ điển. Các tác phẩm như Glass, Irony, and God (1992), Plainwater: Essays and Poetry (1995) và Men in the Off Hours (2001) đã giúp khẳng định danh tiếng của tác giả như một nhà thơ độc đáo trong số các nhà thơ đương đại. Nhưng có lẽ những ví dụ được đón nhận rộng rãi nhất về chuyên môn đặc biệt của bà là các tiểu thuyết thơ Autobiography of Red: A Novel in Verse (1998) và The Beauty of the Husband: A Fictional Essay in 29 Tangos (2001).

Autobiography of Red (Tự truyện về Red) lấy cảm hứng từ truyền thuyết về Hercules—Herakles theo cách viết truyền thống từ câu chuyện của Steischoros—người có công lao thứ mười là giết quái vật cánh đỏ Geryon. Viết lại câu chuyện trong thời hiện đại, Carson đưa ra một số lựa chọn quan trọng. “Trong Steischoros, Herakles giết Geryon và đánh cắp đàn gia súc đỏ của ông ta,” Adam Kirsch giải thích trong New Republic. “Trong Carson, Herakles làm tan nát trái tim Geryon và đánh cắp sự ngây thơ của ông ta.” Hai nhân vật được giới thiệu là những thiếu niên, Geryon (vẫn đỏ và có cánh) là một cậu bé trung học được che chở, nhạy cảm và Herakles là một chàng trai thô lỗ, nổi loạn và gợi cảm. Cả hai bắt đầu một mối tình kết thúc bằng “Herakles không thể sánh được với sự ngưỡng mộ xé nát tâm hồn của Geryon,” như cộng tác viên của Chicago Review, Mark Halliday đã mô tả. Nhiều năm sau, hai nhân vật gặp nhau ở Buenos Aires, nơi Geryon rơi vào mối quan hệ tay ba hủy diệt với Herakles và bạn trai mới của anh ta, Ankash. Cuốn sách đã nhận được phản ứng mạnh mẽ từ một số tạp chí định kỳ. Halliday cảm thấy rằng cuốn sách "có chủ đích kỳ quặc và kỳ lạ một cách thích thú". Nhà phê bình Bruce Hainley của The Nation đã tuyên bố Carson là "một triết gia về nỗi đau khổ" và nói rằng bài thơ dài sử thi của bà đã tạo nên "một cuốn sách tuyệt vời về ham muốn, nhà thơ Hy Lạp cổ đại Steischoros, núi lửa và sự tàn bạo vui vẻ của thị giác và sự mù lòa".

Lặp lại những cuộc tranh luận vẫn tiếp tục xoay quanh thơ ca giống như văn xuôi của Carson, Kirsch tự hỏi liệu Carson có thực sự tạo ra câu thơ được hứa hẹn trong phụ đề của cuốn sách hay không. Ông khẳng định: "Bài viết rõ ràng là văn xuôi được trình bày theo các dòng dài và ngắn xen kẽ, không có sự nghiêm ngặt về nhịp điệu hay nhịp điệu; sự phân chia giữa một dòng dài và một dòng ngắn chỉ là về mặt đánh máy, hoặc tốt nhất là về cú pháp".

Những lời truyền miệng như vậy vang vọng sự đón nhận một cuốn sách khác của Carson, tập đầu tiên của bà là Eros the Bittersweet (1986). Theo John D’Agata trên tờ Boston Review, cuốn sách “đầu tiên làm choáng váng cộng đồng kinh điển như một tác phẩm học thuật của Hy Lạp; sau đó, nó làm choáng váng cộng đồng phi hư cấu như một sự trở lại đầy cảm hứng với các bài tiểu luận đầy chất trữ tình từng được Seneca, Montaigne và Emerson xuất bản. Và giờ đây, nó được tái bản dưới dạng văn học “thiết kế lại cho một đối tượng hoàn toàn mới, cuối cùng nó đã làm choáng váng các nhà thơ.” D’Agata coi tác phẩm trước đó của Carson là một nhà tiểu luận ở khắp mọi nơi trong thơ của bà, cùng với sự say mê sâu sắc của bà đối với các ngôn ngữ cổ điển. D’Agata cho rằng tác phẩm của Carson yêu cầu người ta phải cân nhắc “một bài thơ có thể mang tính văn xuôi, tu từ hay lập luận đến mức nào trước khi nó trở thành thứ gì đó hoàn toàn khác, trước khi nó trở lại thành văn xuôi, thành tiểu luận?”

Men in the Off Hours, một tập thơ ngắn kết hợp “thơ văn, thơ tình, tiểu luận thơ, văn xuôi tưởng niệm, kịch bản phim truyền hình và cũng là thơ minh họa cho hội họa” - theo Stephen Burt của tờ Publishers Weekly - đã nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt. Kate Moses mô tả nó như một sự chiêm nghiệm về thời gian, nó “bao hàm tất cả những buổi dã ngoại mà thời gian trải ra sau chính nó: cuộc sống và tình dục và tình yêu và cái chết.” Tác phẩm đã được trao Giải thưởng Thơ Griffin và lọt vào vòng chung kết Giải thưởng Văn học của Toàn quyềnGiải thưởng của Hội phê bình Sách Quốc gia.

Năm 2001, Carson cũng đã xuất bản The Beauty of the Husband: A Fictional Essay in 29 Tangos, một tiểu thuyết thơ có chủ đề là “sự ngang ngược của dục vọng và sự bất mãn của trái tim khi nhìn qua sự tan vỡ hôn nhân,” - theo Daphne Merkin. Nó cũng nhận được nhiều lời khen ngợi và đã được trao Giải thưởng T.S. Eliot. Năm 2000, Carson được trao tặng giải thưởng “thiên tài” của Quỹ MacArthur.

Kể từ thành công của mình vào năm 2001, Carson đã tiếp tục xuất bản một tập “thơ ca, tiểu luận và opera”, Decreation (2005). Gồm những lời bài hát ngắn, một kịch bản, oratorio và các phần văn xuôi dài kết hợp phê bình văn học với nghiên cứu triết học, cuốn sách lấy tiêu đề và động lực từ ý tưởng của triết gia Simone Weil. Như Carson giải thích, khái niệm “decreation” của Weil là “sự phá hủy – destruction - bản thể trong chúng ta - bản thể đó được bao bọc trong bản thân và được định nghĩa bởi bản thân”. Như Deryn Rees-Jones đã lưu ý trong tờ Independent, “khi phá hủy (destruction), chúng ta sẽ tìm thấy sự viên mãn siêu hình, hòa hợp với vũ trụ khi bản thân bị xóa sổ”. Decreation nhận được nhiều lời khen ngợi từ mọi phía và Fiona Sampson, khi đánh giá cuốn sách cho tờ Guardian, là "đã phác thảo một trong những trí thông minh kỳ lạ nhất đang hoạt động trong nền văn học đương đại", và mặc dù có tính chất phi thể loại (unclassifiable), "trên hết nó vẫn là... thơ ca độc nhất vô nhị".

Carson vẫn tiếp tục là một dịch giả quan trọng và thú vị của các nhà văn cổ điển. Hai tác phẩm dịch thuật của bà: Grief Lessons: Four Plays của Euripides (2006) và An Oresteia (2009) đều gây ra cuộc tranh luận quan trọng. Grief Lessons trình bày bốn bi kịch ít được biết đến của Euripides và cung cấp "một loại sách nhập môn về những nguy hiểm cố hữu của sự tận tụy mù quáng với hệ tư tưởng", theo Hilton Als viết trên tờ New Yorker. Một nhà phê bình của Publisher's Weekly nhận thấy rằng "Carson không gì khác ngoài sự thông minh - sắc sảo không ngừng trong cách diễn đạt, táo bạo và sáng suốt khi tự do hành động". Bản dịch tiếp theo của Carson, An Oresteia, là một tác phẩm tổng hợp các vở kịch nói về số phận của gia tộc Atreus và bao gồm Agamemnon của Aeshcylus, Electra của Sophocles và Orestes của Euripides. Tập sách nhận được những đánh giá trái chiều chỉ vì những sự tự do đó. Brad Leithauser viết trên tờ New York Times thấy cách lựa chọn từ ngữ của Carson không theo quy tắc và thường gây khó chịu cho người đương thời và "không tìm thấy... trong bản dịch của Carson” tạo cảm giác về một tổng thể tổng hợp. Có những lúc cách diễn đạt của bà xuống thấp đến mức tôi gặp khó khăn khi nhớ rằng mình đang đối phó với những người đàn ông giống như thần thánh trong sự lộng lẫy của họ." Emily Wilson, trên tờ Nation, nhận thấy rằng mặc dù Carson là một học giả nhận thức sâu sắc về sự khác biệt giữa ba tác giả bi kịch, nhưng bà "không hoàn toàn thành công trong việc khiến họ nghe có vẻ khác biệt với nhau", mặc dù Wilson mô tả bản dịch của Carson là một "phong trào... rời xa hệ tư tưởng rõ ràng của Oresteia của Aeschylus hướng tới thế giới phức tạp và mơ hồ hơn nhiều của Orestes của Euripides", điều này khiến tác phẩm trở nên quan trọng hơn và "phù hợp với bối cảnh chính trị hiện tại".

Nói chuyện với nhà thơ kiêm nhà phê bình Stephanie Burt, Carson thừa nhận rằng trong thâm tâm bà coi mình là một nghệ sĩ thị giác chứ không phải nghệ sĩ ngôn từ: "Tôi không viết nhiều cho đến tận khi tôi ngoài hai mươi vì tôi vẽ. Tôi chỉ vẽ tranh và đôi khi viết lên tranh khi còn trẻ, nhưng chủ yếu là tôi thích vẽ. Tôi chưa bao giờ nghĩ mình là một nhà văn!" Ngay cả sau một số tập được ca ngợi, "Tôi không biết mình đã làm được chưa. Tôi biết rằng mình phải tạo ra mọi thứ. Và đó là một hình thức tiện lợi mà chúng ta có trong nền văn hóa của mình, cuốn sách, trong đó bạn có thể tạo ra mọi thứ, nhưng nó ngày càng trở nên ít thỏa mãn hơn. Và tôi chưa bao giờ cảm thấy rằng nó làm cạn kiệt bất kỳ ý tưởng nào tôi có."

Mộc Nhân dịch từ nguồn Poetryfoundation.org

Không có nhận xét nào: