Mộc Nhân
Thuật ngữ “Công nghiệp văn hóa” (The culture industry) xuất hiện lần đầu tiên năm 1944, trong cuốn sách "Dialectic of Enlightenment" (Phép biện chứng của sự khai sáng) của hai nhà nghiên cứu người Đức là Adorno và Horkneimer. Đến năm 1982, nó xuất hiện trên diễn đàn của UNESCO và chính thức được thông qua vào năm 1998.
Tại Việt Nam, “Công nghiệp
văn hóa” được đề cập vào năm 2014 trong Nghị quyết 33/NQ-TW; và tại
Thành phố Đà Nẵng, cụm từ này lần đầu được lên diễn đàn “Hội thảo khoa học” vào
sáng ngày 05/12/2025 với nhiều tham luận và phát biểu.
Mọi chuyện về
“Công nghiệp văn hóa” ở nước ta còn ở phía trước vì nó liên quan đến nghị quyết, xin
phép, cấp giấy phép, phê duyệt dự án, cân nhắc lợi ích kinh tế, lo ngại chính trị…
Còn ở các nước khác, họ
đã thành công với “Công nghiệp văn hóa”, đưa văn hoá nước họ ra phạm vi toàn cầu
bằng các chương trình quảng bá, đầu tư, linh hoạt trong quản lý nhà nước...
Vậy nên, thật dễ hiểu
khi truyện tranh Nhật Bản; âm nhạc, phim truyền hình Hàn Quốc… lan toả trong
không gian thụ hưởng văn hoá các nước trong khu vực. Thậm chí Hàn Quốc còn “đầu
tư” để hướng đến giải Nobel Văn học mà Han Kang (Nobel Văn học 2024) là một ví
dụ…
Và Theodor Adorno, người
đầu tiên trên thế giới đề xuất khái niệm “The culture industry” đã nhận ra những
chướng ngại thể chế đối với “Công nghiệp văn hóa” trong câu nói ẩn dụ: “Cái dằm
trong mắt bạn chính là chiếc kính lúp tốt nhất hiện có” (The splinter in your
eye is the best magnifying-glass available). Thậm chí, ông này còn chỉ trích “Công
nghiệp văn hóa” ở một số khía cạnh tư tưởng, chính trị, xã hội (xem một số câu
trích nêu dưới).
Sau hội thảo này, chúng
tôi chờ đợi những gì ở phía trước, dù có thể là 1 hay vài thập niên… với hy vọng
không có cái dằm (splinter) nào khi chúng ta tiến hành các hoạt động nhằm triển
khai “Công nghiệp văn hóa”.
***
Nhân đây, tôi lưu lại một
số câu trích về “Công nghiệp văn hóa” của Theodor Adorno từ sách đã dẫn trên:
1. “Trái ngược với
Kant, mệnh lệnh tuyệt đối của ngành công nghiệp văn hóa không còn liên quan gì
đến tự do. Nó tuyên bố: bạn phải tuân thủ, không cần chỉ dẫn về điều gì; hãy
tuân thủ những gì vốn dĩ tồn tại như một phản ánh của sức mạnh và sự hiện diện
khắp nơi của nó. Sức mạnh của hệ tư tưởng ngành công nghiệp văn hóa lớn đến mức
sự tuân thủ đã thay thế ý thức.” (In
contrast to the Kantian, the categorical imperative of the culture industry no
longer has anything in common with freedom. It proclaims: you shall conform,
without instruction as to what; conform to that which exists anyway as a reflex
of its power and omnipresence. The power of the culture industry's ideology is
such that conformity has replaced consciousness.)
2. “Ngành công nghiệp
văn hóa không phải là nghệ thuật của người tiêu dùng mà là sự phản chiếu ý chí
của những kẻ nắm quyền lên nạn nhân của chúng. Việc tự động tái tạo hiện trạng
dưới những hình thức đã được thiết lập tự thân nó đã là một biểu hiện của sự thống
trị.” (The culture industry is not the
art of the consumer but rather the projection of the will of those in control
onto their victims. The automatic self-reproduction of the status quo in its
established forms is itself an expression of domination.)
3. “Tính phổ quát ảo tưởng
chính là tính phổ quát của nghệ thuật ngành công nghiệp văn hóa, đó là tính phổ
quát của sự đồng nhất, một loại nghệ thuật thậm chí không còn hứa hẹn hạnh phúc
mà chỉ mang lại sự giải trí dễ dàng như một sự giải tỏa khỏi công việc.” (Illusory universality is the universality
of the art of the culture industry, it is the universality of the homogeneous
same, an art which no longer even promises happiness but only provides easy
amusement as relief from labour.)
4. “Cả thế giới đều được
đưa qua bộ lọc của ngành công nghiệp văn hóa. Trải nghiệm quen thuộc của người
xem phim, những người coi đường phố bên ngoài là sự tiếp nối của bộ phim họ vừa
xem, bởi vì bộ phim cố gắng tái hiện thế giới nhận thức thường nhật một cách
nghiêm ngặt, đã trở thành kim chỉ nam cho quá trình sản xuất. Kỹ thuật của nó
càng sao chép các đối tượng thực nghiệm một cách dày đặc và hoàn chỉnh, thì nó
càng dễ dàng tạo ra ảo giác rằng thế giới bên ngoài là một sự mở rộng liền mạch
của thế giới đã được tiết lộ trong điện ảnh.” (The whole world is passed through the filter of the culture industry.
The familiar experience of the moviegoer, who perceives the street outside as a
continuation of the film he has just left, because the film seeks strictly to
reproduce the world of everyday perception, has become the guideline of
production. The more densely and completely its techniques duplicate empirical
objects, the more easily it creates the illusion that the world outside is a
seamless extension of the one which has been revealed in the cinema.)
5. “Sức
mạnh của hệ tư tưởng trong ngành công nghiệp văn hóa lớn đến mức sự tuân thủ đã
thay thế ý thức.” (The power of the
culture industry's ideology is such that conformity has replaced consciousness.)
6. “Phê bình văn hóa
đang đối mặt với giai đoạn cuối cùng của phép biện chứng giữa văn hóa và sự man
rợ. Viết thơ sau trại Auschwitz là một hành động man rợ. Và điều này thậm chí
còn làm xói mòn cả kiến thức về lý do tại sao thơ ca ngày nay trở nên bất khả
thi. Sự vật hóa tuyệt đối, vốn giả định sự tiến bộ về mặt trí tuệ là một trong
những yếu tố của nó, giờ đây đang chuẩn bị nuốt chửng toàn bộ tâm trí. Trí tuệ
phê phán không thể sánh ngang với thách thức này chừng nào nó còn tự giới hạn
mình trong sự chiêm nghiệm tự mãn.” (Cultural
criticism finds itself faced with the final stage of the dialectic of culture
and barbarism. To write poetry after Auschwitz is barbaric. And this corrodes
even the knowledge of why it has become impossible to write poetry today.
Absolute reification, which presupposed intellectual progress as one of its
elements, is now preparing to absorb the mind entirely. Critical intelligence
cannot be equal to this challenge as long as it confines itself to
self-satisfied contemplation.)
7. “Việc
tất cả mọi người đều giống nhau chính xác là điều mà xã hội muốn nghe. Nó coi
những khác biệt thực tế hay tưởng tượng là những dấu hiệu cho thấy chưa có nhiều
việc được thực hiện; rằng vẫn còn một điều gì đó bị bỏ lại bên ngoài bộ máy của
nó, chưa hoàn toàn được xác định bởi toàn bộ.” (That all men are alike is exactly what society would like to hear. It
considers actual or imagined differences as stigmas indicating that not enough
has yet been done; that something has still been left outside its machinery,
not quite determined by its totality.)
8. “Chiến
thắng của quảng cáo trong ngành công nghiệp văn hóa là người tiêu dùng cảm thấy
bị thôi thúc phải mua và sử dụng sản phẩm của nó ngay cả khi họ nhìn thấu
chúng.” (The triumph of advertising in
the culture industry is that consumers feel compelled to buy and use its
products even though they see through them.)
9. “Vậy
là trải nghiệm về cái chết được chuyển thành trải nghiệm trao đổi công chức, và
bất cứ điều gì trong mối quan hệ tự nhiên với cái chết mà không được hấp thụ
hoàn toàn vào mối quan hệ xã hội đều được chuyển sang vệ sinh. Khi được xem như
sự ra đi của một sinh vật sống khỏi tổ hợp xã hội, cái chết đã được thuần hóa:
cái chết chỉ đơn thuần xác nhận sự không liên quan tuyệt đối của sinh vật tự
nhiên trước xã hội tuyệt đối.” (So the
experience of death is turned into that of the exchange of functionaries, and
anything in the natural relationship to death that is not wholly absorbed into
the social one is turned over to hygiene. In being seen as no more than the
exit of a living creature from the social combine, death has been domesticated:
dying merely confirms the absolute irrelevance of the natural organism in face
of the social absolute.)
10. “Điều
đã trở nên xa lạ với con người chính là thành phần nhân văn của văn hóa, phần gần
gũi nhất của nó, thứ nâng đỡ họ chống lại thế giới. Họ hợp nhất với thế giới chống
lại chính mình, và trạng thái xa lạ nhất, sự hiện diện khắp nơi của hàng hóa, sự
biến đổi bản thân thành những phần phụ của máy móc, đối với họ là một ảo ảnh của
sự gần gũi.” (What has become alien to
men is the human component of culture, its closest part, which upholds them
against the world. They make common cause with the world against themselves,
and the most alienated condition of all, the omnipresence of commodities, their
own conversion into appendages of machinery, is for them a mirage of closeness.)
------
Refrences:
1. Goodread/Theodor Adorno.com
2. Theodor Adorno/quotes
3. The culture industry/Theodor Adorno.


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét