6/12/25

3.715. CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA

    Mộc Nhân


Thuật ngữ “Công nghiệp văn hóa” (The culture industry) xuất hiện lần đầu tiên năm 1944, trong cuốn sách "Dialectic of Enlightenment" (Phép biện chứng của sự khai sáng) của hai nhà nghiên cứu người Đức là Adorno và Horkneimer. Đến năm 1982, nó xuất hiện trên diễn đàn của UNESCO và chính thức được thông qua vào năm 1998.

Tại Việt Nam, “Công nghiệp văn hóa” được đề cập vào năm 2014 trong Nghị quyết 33/NQ-TW; và tại Thành phố Đà Nẵng, cụm từ này lần đầu được lên diễn đàn “Hội thảo khoa học” vào sáng ngày 05/12/2025 với nhiều tham luận và phát biểu.


Mọi chuyện về “Công nghiệp văn hóa” ở nước ta còn ở phía trước vì nó liên quan đến nghị quyết, xin phép, cấp giấy phép, phê duyệt dự án, cân nhắc lợi ích kinh tế, lo ngại chính trị…

Còn ở các nước khác, họ đã thành công với “Công nghiệp văn hóa”, đưa văn hoá nước họ ra phạm vi toàn cầu bằng các chương trình quảng bá, đầu tư, linh hoạt trong quản lý nhà nước...

Vậy nên, thật dễ hiểu khi truyện tranh Nhật Bản; âm nhạc, phim truyền hình Hàn Quốc… lan toả trong không gian thụ hưởng văn hoá các nước trong khu vực. Thậm chí Hàn Quốc còn “đầu tư” để hướng đến giải Nobel Văn học mà Han Kang (Nobel Văn học 2024) là một ví dụ…

Và Theodor Adorno, người đầu tiên trên thế giới đề xuất khái niệm “The culture industry” đã nhận ra những chướng ngại thể chế đối với “Công nghiệp văn hóa” trong câu nói ẩn dụ: “Cái dằm trong mắt bạn chính là chiếc kính lúp tốt nhất hiện có” (The splinter in your eye is the best magnifying-glass available). Thậm chí, ông này còn chỉ trích “Công nghiệp văn hóa” ở một số khía cạnh tư tưởng, chính trị, xã hội (xem một số câu trích nêu dưới).

Sau hội thảo này, chúng tôi chờ đợi những gì ở phía trước, dù có thể là 1 hay vài thập niên… với hy vọng không có cái dằm (splinter) nào khi chúng ta tiến hành các hoạt động nhằm triển khai “Công nghiệp văn hóa”.

***

Nhân đây, tôi lưu lại một số câu trích về “Công nghiệp văn hóa” của Theodor Adorno từ sách đã dẫn trên:

1. “Trái ngược với Kant, mệnh lệnh tuyệt đối của ngành công nghiệp văn hóa không còn liên quan gì đến tự do. Nó tuyên bố: bạn phải tuân thủ, không cần chỉ dẫn về điều gì; hãy tuân thủ những gì vốn dĩ tồn tại như một phản ánh của sức mạnh và sự hiện diện khắp nơi của nó. Sức mạnh của hệ tư tưởng ngành công nghiệp văn hóa lớn đến mức sự tuân thủ đã thay thế ý thức.” (In contrast to the Kantian, the categorical imperative of the culture industry no longer has anything in common with freedom. It proclaims: you shall conform, without instruction as to what; conform to that which exists anyway as a reflex of its power and omnipresence. The power of the culture industry's ideology is such that conformity has replaced consciousness.)

2. “Ngành công nghiệp văn hóa không phải là nghệ thuật của người tiêu dùng mà là sự phản chiếu ý chí của những kẻ nắm quyền lên nạn nhân của chúng. Việc tự động tái tạo hiện trạng dưới những hình thức đã được thiết lập tự thân nó đã là một biểu hiện của sự thống trị.” (The culture industry is not the art of the consumer but rather the projection of the will of those in control onto their victims. The automatic self-reproduction of the status quo in its established forms is itself an expression of domination.)

3. “Tính phổ quát ảo tưởng chính là tính phổ quát của nghệ thuật ngành công nghiệp văn hóa, đó là tính phổ quát của sự đồng nhất, một loại nghệ thuật thậm chí không còn hứa hẹn hạnh phúc mà chỉ mang lại sự giải trí dễ dàng như một sự giải tỏa khỏi công việc.” (Illusory universality is the universality of the art of the culture industry, it is the universality of the homogeneous same, an art which no longer even promises happiness but only provides easy amusement as relief from labour.)

4. “Cả thế giới đều được đưa qua bộ lọc của ngành công nghiệp văn hóa. Trải nghiệm quen thuộc của người xem phim, những người coi đường phố bên ngoài là sự tiếp nối của bộ phim họ vừa xem, bởi vì bộ phim cố gắng tái hiện thế giới nhận thức thường nhật một cách nghiêm ngặt, đã trở thành kim chỉ nam cho quá trình sản xuất. Kỹ thuật của nó càng sao chép các đối tượng thực nghiệm một cách dày đặc và hoàn chỉnh, thì nó càng dễ dàng tạo ra ảo giác rằng thế giới bên ngoài là một sự mở rộng liền mạch của thế giới đã được tiết lộ trong điện ảnh.” (The whole world is passed through the filter of the culture industry. The familiar experience of the moviegoer, who perceives the street outside as a continuation of the film he has just left, because the film seeks strictly to reproduce the world of everyday perception, has become the guideline of production. The more densely and completely its techniques duplicate empirical objects, the more easily it creates the illusion that the world outside is a seamless extension of the one which has been revealed in the cinema.)

5. “Sức mạnh của hệ tư tưởng trong ngành công nghiệp văn hóa lớn đến mức sự tuân thủ đã thay thế ý thức.” (The power of the culture industry's ideology is such that conformity has replaced consciousness.)

6. “Phê bình văn hóa đang đối mặt với giai đoạn cuối cùng của phép biện chứng giữa văn hóa và sự man rợ. Viết thơ sau trại Auschwitz là một hành động man rợ. Và điều này thậm chí còn làm xói mòn cả kiến ​​thức về lý do tại sao thơ ca ngày nay trở nên bất khả thi. Sự vật hóa tuyệt đối, vốn giả định sự tiến bộ về mặt trí tuệ là một trong những yếu tố của nó, giờ đây đang chuẩn bị nuốt chửng toàn bộ tâm trí. Trí tuệ phê phán không thể sánh ngang với thách thức này chừng nào nó còn tự giới hạn mình trong sự chiêm nghiệm tự mãn.” (Cultural criticism finds itself faced with the final stage of the dialectic of culture and barbarism. To write poetry after Auschwitz is barbaric. And this corrodes even the knowledge of why it has become impossible to write poetry today. Absolute reification, which presupposed intellectual progress as one of its elements, is now preparing to absorb the mind entirely. Critical intelligence cannot be equal to this challenge as long as it confines itself to self-satisfied contemplation.)

7. “Việc tất cả mọi người đều giống nhau chính xác là điều mà xã hội muốn nghe. Nó coi những khác biệt thực tế hay tưởng tượng là những dấu hiệu cho thấy chưa có nhiều việc được thực hiện; rằng vẫn còn một điều gì đó bị bỏ lại bên ngoài bộ máy của nó, chưa hoàn toàn được xác định bởi toàn bộ.” (That all men are alike is exactly what society would like to hear. It considers actual or imagined differences as stigmas indicating that not enough has yet been done; that something has still been left outside its machinery, not quite determined by its totality.)

8. “Chiến thắng của quảng cáo trong ngành công nghiệp văn hóa là người tiêu dùng cảm thấy bị thôi thúc phải mua và sử dụng sản phẩm của nó ngay cả khi họ nhìn thấu chúng.” (The triumph of advertising in the culture industry is that consumers feel compelled to buy and use its products even though they see through them.)

9. “Vậy là trải nghiệm về cái chết được chuyển thành trải nghiệm trao đổi công chức, và bất cứ điều gì trong mối quan hệ tự nhiên với cái chết mà không được hấp thụ hoàn toàn vào mối quan hệ xã hội đều được chuyển sang vệ sinh. Khi được xem như sự ra đi của một sinh vật sống khỏi tổ hợp xã hội, cái chết đã được thuần hóa: cái chết chỉ đơn thuần xác nhận sự không liên quan tuyệt đối của sinh vật tự nhiên trước xã hội tuyệt đối.” (So the experience of death is turned into that of the exchange of functionaries, and anything in the natural relationship to death that is not wholly absorbed into the social one is turned over to hygiene. In being seen as no more than the exit of a living creature from the social combine, death has been domesticated: dying merely confirms the absolute irrelevance of the natural organism in face of the social absolute.)

10. “Điều đã trở nên xa lạ với con người chính là thành phần nhân văn của văn hóa, phần gần gũi nhất của nó, thứ nâng đỡ họ chống lại thế giới. Họ hợp nhất với thế giới chống lại chính mình, và trạng thái xa lạ nhất, sự hiện diện khắp nơi của hàng hóa, sự biến đổi bản thân thành những phần phụ của máy móc, đối với họ là một ảo ảnh của sự gần gũi.” (What has become alien to men is the human component of culture, its closest part, which upholds them against the world. They make common cause with the world against themselves, and the most alienated condition of all, the omnipresence of commodities, their own conversion into appendages of machinery, is for them a mirage of closeness.)

 11. “Loại người mới không thể được hiểu đúng đắn nếu không nhận thức được những gì anh ta liên tục tiếp xúc từ thế giới vạn vật xung quanh, ngay cả trong những sự chi phối thầm kín nhất của anh ta.” (The new human type cannot be properly understood without awareness of what he is continuously exposed to from the world of things about him, even in his most secret innervations.)

------

Refrences:

1. Goodread/Theodor Adorno.com

2. Theodor Adorno/quotes

3. The culture industry/Theodor Adorno.

Không có nhận xét nào: