8/12/25

3.717. TỨ NHIẾP PHÁP VỚI TÍN HỮU CAO ĐÀI

 Lê Đức Thịnh

Bài đăng trên Tạp chí Sống Đạo
số ra mùa Đông - Ất Tỵ (2025)

Trong Bộ Kinh Duy-ma-cật của Nhà Phật (Quyển thượng - Phẩm thứ nhất) có nói đến “Tứ nhiếp pháp”; đó là bốn phương pháp mà Bồ Tát dùng để nhiếp phục chúng sanh về với Phật pháp:

1. Bố thí nhiếp: Dùng việc bố thí để nhiếp phục trong các mối quan hệ.

2. Ái ngữ nhiếp: Dùng lời hay, ý đẹp để nhiếp phục. Tùy theo căn tánh chúng sanh mà khôn khéo nói năng, an ủi, khuyên lơn, khiến cho họ sinh lòng thân mến, cảm phục.

3. Lợi hành nhiếp: Dùng hành động vị tha hoặc lấy ích lợi để nhiếp phục khiến cho người khác thân mến, gần gũi. Bất luận việc lớn nhỏ, miễn giúp ích được cho người là không bao giờ từ nan, không cần phải đợi có dủ phương tiện mới làm lợi ích cho người được.

4. Đồng sự nhiếp: cùng hòa nhập, chan hòa, chia sẻ, cộng tác với người, không phân biệt, để một mặt hướng dẫn, giúp đỡ họ trong công việc, nêu gương làm cho người cảm mến.

***

Đạo Cao Đài với tôn chỉ “Tam giáo quy nguyên” nên khái niệm “Tứ nhiếp pháp” của nhà Phật cũng được nhắc đến trong Thánh Giáo và được tín hữu Cao Đài tiếp thu, thực hành trong tu tập cùng với các mối quan hệ Đạo – đời.

1. Với “Bố thí nhiếp”: Không nên hiểu bố thí là ban phát mà là chia sẻ mà không cần đáp trả. Quan tâm chia sẻ với người đồng đạo và các cảnh ngộ trong cuộc sống không chỉ là vấn đề vật chất mà còn cả về tinh thần. Bố thí không chỉ là trao mà ta còn nhận lại tình cảm và sự kính  trọng của người khác. Sự bố thí phải xuất phát từ tình yêu thương chứ không nên xuất phát từ những mưu cầu hay trục lợi. Giáo lý Cao Đài đề cao việc bố thí thông qua các hoạt động của cơ quan Phước Thiện - như một phương tiện quan trọng để lập đức và thực hiện lòng yêu thương.

Bố thí không chỉ giới hạn trong việc giúp đỡ vật chất và tinh thần đối với đồng đạo mà còn cứu giúp linh hồn các đẳng cô hồn âm hồn. Việc Bố thí như vậy mới được trọn vẹn: "chẳng những trợ giúp về mặt vật chất hình thức bên ngoài mà thôi, mà đến tinh thần bên trong cũng phải có sự an ủi tâm hồn cho người được an vui và bình tâm định trí." (Trích Đạo Luật năm Mậu Dần 1938 về Cơ Quan Phước Thiện).

Việc bố thí ấy "chẳng nên phân biệt người trong Ðạo hay người ngoài Ðời." (Tài liệu đã dẫn). Giáo lý Cao Đài phân loại Bố thí thành nhiều hình thức: (1) Tài thí: giúp đỡ người khác hoặc làm công quả bằng vật chất. (2) Công thí: giúp đỡ người khác hoặc làm công quả bằng sức lực và ngày công. (3) Ngôn thí: lấy lời nói, khuyên bảo, tư vấn mà giúp người để giải quyết những ưu tư  của họ. (4) Pháp thí: chia sẻ kinh sách, truyền đạt đức tin để cảm hóa giáo dục, cùng giúp nhau trên con đường tu tập.

Bài Kinh Sám Hối đã liệt kê nhiều việc nên làm với ý nghĩa bố thí, chẳng hạn: “Thí tiền thí bạc, chẩn bần/ Người đau thí thuốc, Thánh Thần phước ban" hoặc: “Người phú túc vun nền âm đức/ Lấy lòng nhơn giúp sức trợ nghèo/ Chớ sanh chước hiểm hẹp eo/ Lời tăng quá vốn, kẻ nghèo xiết than…" là những lời răn cụ thể về bố thí và tinh thần nhân ái để đạo hữu tích lũy công đức và tránh tội lỗi.

Trong các phương tiện bố thí trên, chỉ có Thí pháp là có nhiều công đức hơn cả bởi đem Pháp ra hóa độ người để họ giác ngộ, lo tu hành để tốt đời đẹp đạo; lập công bồi đức trên tinh thần vô ngã cốt để mở đường Thánh Đức cho toàn sanh chúng có đủ phương thế nhập vào Thánh Thể.

2. Ái ngữ nhiếp: Căn cốt của ái ngữ là lời hay ý đẹp, dịu ngọt, ôn hoà, lấy sự bao dung trong nhã ngữ để tăng tính thuyết phục, tạo nên mối quan hệ đồng đạo tốt đẹp.

Giáo lý Đạo Cao Đài, đặc biệt trong các Thánh ngôn và Kinh sách, luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của lời nói hòa nhã, hiền lành, điều này tương đồng với tinh thần Ái ngữ của nhà Phật.

Tinh thần Ái ngữ trong Giáo lý Cao Đài dạy rằng lời nói phải xuất phát từ lòng bác ái và chí thành, nhằm mục đích khuyên thiện: "Nguyện lời nói biến hình bác ái/ Nguyện chí thành sửa máy tà gian” (Kinh Thuyết Pháp).  

Trong tài liệu về Phương Châm Hành Đạo, có dạy người tín đồ phải: "dùng lời dịu ngọt mà dạy dỗ kẻ dưới quyền mình; phải lấy nét ôn hòa mình điều độ nhau… Nên dùng lời nói nhỏ nhẹ mà khuyên bạn hữu làm điều thiện." (Trích tài liệu Khái quát về Đạo Cao Đài).

Nội hàm của Ái ngữ được mở rộng trong sự đối lập với ác khẩu sinh khẩu nghiệp, vọng ngôn… là loại lời nói gây tổn hại đến việc tu thân, phạm giới vọng ngữ.

Dân gian có câu “Một câu nhịn bằng chín câu lành” khuyên kiềm chế, tránh tranh chấp bằng lời nói. Điều thứ tư trong “24 điều thế luật” cũng có nội hàm ái ngữ: “Ra giao thiệp với đời thì phải tập và giữ tánh ôn, lương, cung, khiêm, nhượng.”

Khoe khoang, tự cao, khinh người làm cho lòng dạ tối tăm, cái ta trỗi dậy khiến con người trở nên ngạo mạn. Ái ngữ trong quan hệ ứng xử thể hiện đồng thời với thái độ khiêm nhường, cung kính, nói đi đôi với làm…

Thầy dạy: "Lời đạo đức trong miệng con nói ra, ấy là lời Thầy bố hóa tâm trí con đặng đi truyền đạo, tùy cơ mà dạy kẻ…" (Thánh ngôn hiệp tuyển). Tinh thần Ái ngữ trong Đạo Cao Đài liên quan đến là một trong ba nghiệp (thân, khẩu, ý) mà người tu cần phải giữ gìn thanh tịnh trên đường tu tập cũng như trong quan hệ đồng đạo.

Và chắc chắn, tín hữu Cao Đài ai cũng thuộc và hiểu ý nghĩa bài chú này: “Lời ăn nói là nơi lưỡi miệng/ Tiếng luận đàm liệu biện đề phòng/ Giữ gìn miệng đặng sạch trong/ Thốt lời minh-chánh, rèn lòng tụng Kinh.” (Tịnh khẩu chú)

3. Lợi hành nhiếp: Khái niệm "Lợi hành" trong giáo lý Cao Đài được thể hiện rõ nét qua các Thánh ngôn và Kinh sách, mặc dù từ "Lợi hành" có thể không xuất hiện riêng lẻ nhưng nội hàm của nó là lấy việc lợi để khuyên bảo người, là hành động làm lợi ích cho chúng sanh, giúp đời, giúp người, là một phần quan trọng trong việc lập công bồi đức của người tín đồ.

Tư tưởng xả thân, cầu lợi ích cho mọi người là một nghĩa vụ quan trọng của người tu hành: "Người xả thân mưu cầu lợi chúng/ Làm ích chung quốc chúng an hòa”. (Kinh Đại Thừa Chân Giáo), và tinh thần thương xót kẻ khó khăn, giúp đỡ người yếu thế: "Hãy có dạ kỉnh già thương khó/ Chớ đem lòng lấp ngõ tài hiền/ Xót thương đến kẻ tật nguyền/ Đỡ nâng yếu thế, binh quyền mồ côi" (Trích Kinh Sám hối).

Giáo lý Cao Đài định hướng “lợi hành” với trường nghĩa mở, gắn vói nghĩa vụ làm người bao gồm: ích nước lợi dân - hoàn thiện con người - thương yêu hòa hợp đại đồng – tu tập tinh tấn - lập công bồi đức - tiến hóa tâm linh… trên tinh thần Thiên Đạo và Thế Đạo lưỡng toàn (Đạo Trời và Đạo Người đều trọn vẹn).

Những hành vi “"Bày chước độc, xúi ra việc quấy/ Tổn cho người mà lấy lợi riêng/ Hễ nghe khua động đồng tiền/ Sửa ngay làm vạy, không kiêng chút nào." (Kinh sám hối) là đi ngược lại với lợi hành gây quả báo và oan nghiệp cho người làm trái lẽ đời lẽ Đạo.

4. Đồng sự nhiếp: "Đồng sự” nghĩa là cùng làm chung công việc, cùng chung cảnh ngộ, cùng vui cùng khổ với chúng sanh. Khi đạo hữu có tinh thần đồng sự thì dễ dàng cảm hóa và dìu dắt nhau trên đường đạo và đời. Tinh thần “Đồng sự” trước hết phải thể hiện trong đồng đạo, sau đó mở ra với đồng bào bằng cách tạo sự gần gũi, tham gia vào công việc và cuộc sống, bình đẳng với người trong công việc, trong vui khổ, hoạn nạn, ngọt bùi, để tạo sự tin tưởng và dễ bề giáo hóa họ trở về với chánh pháp.

Tinh thần của "Đồng sự nhiếp" được Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng nhấn mạnh qua các lời dạy về sự hòa hiệp, đoàn kết và nhập thế cứu đời. Đức Chí Tôn dạy về sự đoàn kết, xóa bỏ rào cản thế tục để cùng nhau hành Đạo, đây là nền tảng của "Đồng sự nhiếp" trong nội bộ Đạo: "Chẳng quản đồng tông mới một nhà/ Cùng nhau một Đạo tức một Cha." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển – đàn 20/2/1926). Lời dạy này khẳng định sự bình đẳng, không phân biệt dòng dõi hay xuất thân, cùng nhau hòa đồng trong gia đình Đại Đạo, cùng làm sứ mạng của Thầy.

"Đồng sự nhiếp" gắn liền với khái niệm "Nhân Hòa" mà Cao Đài rất coi trọng. Nhân Hòa là sự hòa hiệp, hòa ái, cảm thông giữa người với người. Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế dạy: "An bài nhơn loại do hòa hiệp/ Hòa hiệp không còn ba, bảy, hai" hoặc “Con hãy giữ dĩ hòa vi quí/ Hoà mới tường đạo lý cao siêu/ Mới không phạm luật Thiên Điều/ Mới mong anh dắt em dìu sớm hôm” (Trích 1 bài thi trong tập “Huấn Từ Ngọc Hoàng Thượng Đế").

Chữ "Hòa hiệp" chính là mục tiêu của "Đồng sự nhiếp", xóa bỏ sự phân biệt và tranh chấp để cùng nhau đạt đến sự an bình và đoàn kết.

Tinh thần "Đồng sự nhiếp" cũng thể hiện qua lời dạy của các Đấng Thiêng Liêng về việc thi hành sứ mạng "Thế đạo đại đồng, Thiên đạo giải thoát"

"Trong khi các con thi hành sứ mạng, trên phải đức độ khoan dung, dưới phải khiêm cung hòa ái, giữ đạo hạnh, rèn luyện đạo tâm, thương yêu, kiên nhẫn, trì thủ, hy sinh, hầu cứu rỗi linh hồn của con khỏi sa đọa và cứu rỗi cho mọi người." (Trích lời Thầy ghi trong bài giảng của ngài Đoàn Văn Bản – đệ tử thứ 5/ 12 đệ tử đầu tiên của Đạo Cao Đài).

Tóm lại, mặc dù "Đồng sự nhiếp" là một thuật ngữ Phật học, nhưng tinh thần "hòa đồng", "hòa hiệp" và "cùng nhau làm công quả cứu đời" chính là sự ứng dụng trọn vẹn của pháp môn này trong giáo lý Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

***

Tứ Nhiếp Pháp trong Đạo Phật cũng là các pháp tu trong Cao Đài Đai Đạo. Mỗi “nhiếp pháp” là một hạnh tu, là một công án trong tu hành, là phép ứng xử với đời, là cách thân giáo – ngôn giáo để rèn luyện bản thân như lời Đức Khổng nói: “Dĩ ngôn vi giáo, dĩ thân vi giáo”

Học Đạo là để sống chứ không phải để thoát li cuộc sống. Thiết nghĩ lời dạy của các đấng thiêng liêng không chỉ để tu tập mà còn để vận dụng cho cuộc sống trần thế. Và chắc chắn mỗi người có thể nhận thức và rút ra bài học “nhiếp phục” cho riêng mình.



Không có nhận xét nào: