VÀI KỶ NIỆM VỚI BÙI GIÁNG - Mai Thảo
Nhiều buổi chiều Sài Gòn, tôi chẳng còn có thể nhớ đích xác vào những năm nào, đâu như năm 1962, đâu như năm 1965 (nếu sai, nhờ hai anh Cung Tiến, Phạm Công Thiện nhớ lại dùm cho), tôi thường được mời tới những họp mặt ăn nhậu trên căn lầu ngăn nắp, thoáng mát của thầy Thanh Tuệ ở đường Lý Thái Tổ.
Mỗi họp mặt với Thanh Tuệ, hồi đi là
giám đốc của nhà xuất bản An Tiêm và còn là nhà sư trẻ tươi tắn chưa cởi áo hồi
tục, thường vì một cuốn sách. Một cuốn sách mới, vừa in xong chưa ráo mực. Và
trước khi gởi sách vào nắng mưa đời, họp mặt An Tiêm với thân hữu là một tiệc
rượu lạc thành cho sách.
Những họp mặt vì sách và
do sách đó thường có tôi, Thanh Tâm Tuyền, Phạm Công Thiện, đôi khi Nguyễn Ðình
Toàn, Dương Nghiễm Mậu, Doãn Quốc Sĩ, và đương nhiên nhân vật chủ chốt là tác
giả sách là Bùi Giáng. Tôi chỉ kể tới Bùi Giáng, bởi suốt thời kỳ đó, có thể
nói, thầy Thanh Tuệ vì một tấm lòng liên tài đặc biệt, chỉ mê thích thơ văn Bùi
Giáng, chỉ in Bùi Giáng, dành trọn phương tiện cho ưu tiên xuất bản trưóc mọi
tác giả khác. Và giai đoạn có thể đặt tên là giai đoạn Bùi Giáng này, An Tiêm
đã in đêm in ngày, in mệt nghỉ, vì những năm tháng đó chính là những năm tháng
đánh dấu cho thời kỳ sáng tác kỳ diệu sung mãn nhất của Bùi Giáng, cõi văn cõi
thơ Bùi Giáng bấy giờ ào ạt vỡ bờ, bát ngát trường giang, mênh mông châu thổ,
Bùi Giáng bấy giờ mỗi tuần viết cả ngàn trang khiến chúng tôi bàng hoàng khiếp
đảm, ngôn ngữ và tư duy của Bùi Giáng hiển lộng tới không bền không bờ, vô cùng
vô tận, và tài năng ông cũng vậy.
Bùi Giáng chất ngất một
trời chữ nghĩa, Bùi Giáng trùng trùng một biển văn chương. Vậy mà mỗi lần gặp
thi sĩ hồi đó, cảm tưởng bao giờ cũng giữ được là đã gặp một Bùi Giáng rất nhàn
rỗi, rất rong chơi. Bước chân vào nhà Thanh Tuệ chúng tôi đã thấy Bùi Giáng ngồi
trước đó, tươi cười, ung dung, trong cái phong thái của một người nhàn nhã nhất
thế giới, chẳng có một dấu vết nào của một người viết đang gió táp mưa rơi trên
ngàn ngàn trang sách. Có như Bùi Giáng trước sau vẫn đang chập chờn với đời như
một cánh bướm, lững thững với đời như một áng mây. Có như Bùi Giáng, cái áo vải
cũ, râu tóc để mặc, điếu thuốc trên tay, chén trà trước mặt, vẫn chỉ ngồi chơi
thảnh thơi ngày ngày với An Tiêm như thế. Sau này, sống với Bùi Giáng nhiều
hơn, tôi cũng chỉ thấy Bùi Giáng như hồi đầu thấy ở An Tiêm.
Trong một phiêu hốt, một
ung dung chưa từng thấy. Có như, trọn một đời cái đầu của thi sĩ không một chút
nào dành cho suy nghĩ, bàn tay thi sĩ không một phút nào dành cho cây bút. Có
như trang giấy trắng, mặt bàn viết là những vật thể xa lạ chẳng bao giờø ông biết
tới. Vắn tắt là Bùi Giáng chẳng làm gì hết, chẳng ai một lần nhìn thấy Bùi
Giáng đang làm gì hết. Mà hoàn toàn phiêu bông, hoàn toàn rong chơi. Vậy mà cái
sức viết hồi đó đến như Bùi Giáng là tột đỉnh, là không tiền khoáng hậu. Vậy mà
cái lực viết đến như Bùi Giáng và thấy Bùi Giáng là ngàn người không một, là
phi phàm, là vô địch rồi. Một lần, tôi đem cái điều khó hiểu này ra hỏi một người
cũng làm thơ thật nhiều, cũng làm thơ rất đều tay là Thanh Tâm Tuyền. Tác giả
Liên Ðêm Mặt Trời Tìm Thấy lắc đầu cười: “Chịu không giải thích được. Chỉ biết
Bùi Giáng khác. Với tôi. Với hết thẩy. Là cái chỉ có một. Với tôi là từng bài
thơ. Nói đến từng bài thơ Bùi Giáng, bài thơ này bài thơ kia của Bùi Giáng lại
là chuyện tức cười lắm lắm. Bùi Giáng là cái hiện tượng dị thường của một suối
thơ ăm ắp không ngừng. Ðọc thơ Bùi Giáng cũng phải đọc như thế. Ðứng trên đơn vị
từng bài. Bùi Giáng đặt tựa cho từng bài là ngắt thơ ra, ngắt chơi ra vậy thôi.
Nói đến mấy ngàn bài thơ Bùi Giáng là đúng. Mà nói thơ Bùi Giáng chỉ có một
bài, vô tận vô cùng là đúng hơn. Ngủ ra thơ, thở ra thơ, đi ra thơ, đứng ra
thơ. Chứ không phải nghĩ ra thơ, làm thơ. Ta cứ tạm hiểu cái trạng thái thơ kỳ
lạ khác thường ở Bùi Giáng là như vậy.”
Sự ngược nghịch giữa cái
rong chơi một đời của Bùi Giáng với cái lực thơ, cái số thơ, cái lượng thơ khủng
khiếp làm ra, tôi đem hỏi thêm nhà xuất bản hằng ngày sống cùng Bùi Giáng, rồi
đến chính thi sĩ, cũng không được sáng tỏ gì hơn ngoài suy diễn có tính chất phỏng
đoán của Thanh Tâm Tuyền. Thầy Thanh Tuệ cũng chỉ lắc đầu cười. “Tôi cũng lấy
làm kỳ”, Thanh Tuệ nói. “Anh lang thang suốt ngày, chẳng thấy lúc nào ngồi viết
hết. La cà hết nơi này đến nơi khác, uống rượu say ngất rồi về lầu lăn ra sàn
ngủ, nhiều ngày bỏ cả bữa ăn. Ðêm cũng không thức, chỗ nằm tối thẳm. Tôi in
không kịp, nói ảnh tạm ngừng thì ảnh ngừng. Nói có máy, có giấy, nói buổi sáng
buổi chiều ảnh đã tới ném bịch xuống cả năm, bảy trăm trang. Cứ thế đem sắp chữ
thôi, đâu có thì giờ đọc. Ðiều kỳ lạ là không riêng một thể loại mà thể loại
trước tác nào anh cũng có ngay sách, dễ dàng và nhanh mau vô tả. Từ thơ đến
văn. Từ một cuốn tiểu luận về Camus đến một cuốn tiểu luận về Nguyễn Du. Từ dịch
thuật tiểu thuyết đến phê bình triết học. Tất cả như đùa như chơi vậy.” Nhà An
Tiêm suốt mấy mùa sách, hầu như không thở được nữa trước cái viết tràn bờ của
Bùi Giáng, điều này ai cũng biết.
Rồi tôi rủ Bùi Giáng tới
quán. Ðãi ông uống rượu. Vặn hỏi chính thi sĩ. Ðể cũng chỉ được Bùi Giáng cười
cười thích thú trước tìm hiểu có vẻ ngớ ngẩn của tôi. Ông không chịu giải
thích, chừng như ông không có gì giải thích, sự thành hình tác phẩm nơi Bùi
Giáng cuối cùng vẫn là một bí ẩn hoàn toàn trong cái vùn vụt, cái bất tuyệt
thao thao, cái chớp mắt đã là của nó. Cười cười, ông đốt điếu thuốc, cầm lấy ly
rượu: “Vui thôi mà”.Ừ vui, ba chữ “vui thôi mà” là câu trả lời mơ hồ nghịch ngợm
duy nhất của Bùi Giáng trước mọi tìm hiểu của lực thơ và số lượng thơ không thể
tưởng tượng được ở nơi ông, cõi thơ vô bờ của ông trăm phương nghìn ngã mênh
mông và chính ông là hiện tượng thân của mênh mông nghìn ngã trăm phưong ấy.
Bùi Giáng nói vui thôi
mà. Quả vậy, thơ ông vui cực kỳ. Con châu chấu, con chuồn chuồn. Cơn chuồn chuồn,
con châu chấu. Rừng Marylyn. Biển Brigitte Bardot. Ngành Novak. Ðóa John Keats.
Ngành Mật niệm. Ðóa U Linh. Hồng Lĩnh Hạc Lâm. Quỳnh Lai Thị Xứ. Thơ đốt pháo
bông, ngôn ngữ triệu triệu, như chữ thần diệu: “Người nằm ngủ thấy gì/ Thấy rất
nhiều nắng lạ”.
Giấc ngủ đầy nắng, đầy nắng
lạ. Bùi Giáng nói vui thôi mà. Thơ ông vui thật. Từ cánh tay áo rộng, thơ bay.
Từ trí tuệ gió lộng, thơ phất. Nghìn thu cổ lục. Ngày Hy Nga. Ðêm bé chị. Mọi
trên ngàn. Sóng Hồng Hoang. Thềm dục vọng. Thơ ghé thăm đá, thăm bàn ghế, thăm
bún bò, thăm lá.
“Ghé thăm trái mận ban đầu/ Bình minh bắt gặp nguyên màu ban mai”
Tiếng thơ sáng rỡ, chói
lọi, kỳ ảo, cánh rừng ngôn ngữ ấy suối reo, chim hót, hoa nở, cây ào ào sóng vỗ,
sóng từng từng xanh cây, beo gấu rởn nghịch, con chuồn chuồn hóa thân, con châu
chấu suy tưởng, những môi nhỏ hằng ngày, gì cũng là thơ, thảy đều biến dạng.
Thơ Bùi Giáng vui thật. Một vĩ đại vui. Hãy đọc thơ ấy, như cùng ông đi vào một
trận vui lồng lộng. Ðừng cần tìm hiểu. Ðừng cần giải thích. Hãy đọc lại Mưa Nguồn,
Bài Ca Quần Ðảo: “Xin chào nhau giữa con
đường/ Mùa Xuân phía trước, miên trường phía sau.”
Sẽ thấy cái vẫy tay chào
lấp lánh của thi sĩ. Cái sự “vui thôi mà” trước sau ông chỉ nói vậy, ba chữ này
tôi ao ước được thấy khắc vào mộ chí ông khi ông mất đi, ông và giữa con đường
vui, không dưới không trên, không đầu không cuối gì hết. Giữa và mùa xuân phía
trước, miên trường phía sau. Thơ là người. Ngoài đời Bùi Giáng cũng thật vui.
Thời kỳ Thanh Tuệ chấm dứt, nhà xuất bản An Tiêm tạm ngừng hoạt động, Bùi Giáng
gặp lại Thanh Nam, Viên Linh, Vũ Khắc Khoan và tôi ở toà soạn tuần báo Nghệ Thuật
và những kỷ niệm chúng tôi có với thi sĩ thời gian này vẫn là những kỷ niệm
vui. Lúc này, thần thái ông ấy không còn được rạng rỡ như mấy năm về trước. Cuộc
phiêu bồng qua đời sống của ông kỳ dị và tận cùng hơn. Mái tóc ông đổi màu. Mấy
chiếc răng cửa bị gãy, nụ cười trẻ thơ vừa móm mém. Cặp mắt sâu hóm xa khuất dần
với mọi hình hài thực tế. Những con đường trên đó ông đi, cái túi vải thơ nào,
những ngã tư ông ngừng lại, tách thoát với nhân thế, tất cả ở Bùi Giáng phơi hiện
dần dần một hủy hoại khô khốc, ấy là tôi chỉ biết nhìn thấy ông một cách “hình
hài” như vậy, nhưng “vui thôi mà” thì vẫn là rất vui. Ông vào tòa soạ, ngồi xuống
ghế, nhìn mọi người, cười trẻ thơ, thường nói khát quá và xin một chai bia uống.
Ông uống từng ngụm nhỏ, nói thích chai bia lớn vì uống được nhiều hơn, châm thuốc
hút, những ngón tay vụng về lóng ngóng. Uống cạn chai bia, cái túi vải đeo lên
và bỏ đi. Ðó là cái đến cái đi êm ả của Bùi Giáng. Nhiều lần không thế. Ông ra
tắm ở cái máy nước trước tòa soạn, thản nhiên trước người qua kẻ lại, quần áo
lướt thướt đi qua đường, một đám con nít tròn mắt đi theo. Một lần khác, chúng
tôi đi ra ngoài một lát trở về, thấy ông nằm ngủ ngon lành trên hai cái bàn viết
kê liền lại. Giấc ngủ dài, quên đời, quên hết, mặc hết, phải đánh thức dậy. Những
lần đó, ông ngồi bất động, thầm thì “vui thôi mà” rồi lặng lẽ bỏ đi, cái bóng
dáng gãy đổ, gầy guộc trong chiều xuống.
Chính là trong cái tình
trạng suy nhược đã trầm trọng quá chừng và tiều tụy quà thể này của Bùi Giáng
mà chúng tôi bắt đầu cảm thấy quan tâm thực sự đến thi sĩ. Ðến sức khỏe ông,
ngày mỗi cạn kiệt. Ðến cách sống ông ngày mỗi tiều tụy. Ðến tâm thức ông, ngày
càng bất định. Cuộc vui của ông Bùi Giáng tuyệt vời nhưng chẳng thể phiêu bồng
mãi mãi. Phải làm một cái gì về ông. Ðể ghi nhận lại. Về thế nào là cái tiếng
thơ trác tuyệt của Bùi Giáng, cõi ngôn ngữ đạt tới hoang đường kỳ ảo của Bùi
Giáng. Trong khi còn gần ông. Trước khi ông chẳng gần, chẳng chịu sống cùng ai
nữa.
Số biệt về thiên tài thi
ca Bùi Giáng phải chờ đến hơn một năm sau, tờ Nghệ Thuật đình bản, tôi sang
trông coi tờ Văn chung với Nguyễn Xuân Hoàng thực hiện được. Cũng nhờ số Văn
này mà tôi mới nhìn thấy và hiểu được sự không hiểu của tôi nói ở trên là sự
ngược nghịch giữa Bùi Giáng tháng ngày rong chơi với Bùi Giáng một tuần lễ cả
ngàn câu thơ, cả ngàn trang sách. Số Văn ấy, phần nhận định nhờ Thanh Tâm Tuyền,
Ninh Chữ, Tuệ Sỹ, Trần Tuấn Kiệt… viết. Bài phỏng vấn Nguyễn Xuân Hoàng thực hiện.
Phần giới thiệu những bài thơ mới nhất là tôi. Chưa biết kiếm tìm Bùi Giáng ở
đâu, thi sĩ bất ngờ ghé thăm tòa soạn. Ông ấy chỉ còn là da bọc xương trong quần
áo thùng thình, mái tóc dài đạo sĩ, cái túi vải còn thêm cây gậy. Kéo ông ra
trước báo quán chụp chung tấm hình làm kỷ niệm rồi tôi hỏi xin ông những bài
thơ mới nhất.
Ông gật. Tưởng lấy ở túi
vải ra. Hoặc nói về lấy, hoặc nói hôm sau. Tất cả đều không đúng. Ông hỏi mượn
một cây bút, xin một xấp giấy, một chai bia lớn nữa, đoạn ngồi xuống, và trước
sự kinh ngạc cực điểm của chúng tôi, bắt đầu tại chỗ làm thơ. Ông không chép lại
thơ đã làm. Ông làm thơ tại chỗ. Lần đầu tiên tôi thấy Bùi Giáng viết, thoăn
thoắt, vùn vụt, nhanh không thể tả. Như thơ không thể từ đầu, từ tim chảy xuống,
lâu quá, mà ngay từ ngọn bút từ đầu ngón thôi. Làm thơ ứng khẩu, làm thơ tại chỗ,
nhiều người cũng làm được. Nhưng là thơ thù tạc, và chỉ năm bảy câu một bài
thôi. Bùi Giáng khác. Chai bia còn sủi bọt, ông ngồi viết không ngừng, tự dạng
nắm nót chỉnh đốn, chỉ một thôi đã xong hơn hai mươi bài thơ, chúng tôi cầm lên
coi, thấy bài thơ nào cũng khác lạ, cũng thật hay, cũng đích thực là từng hạt
ngọc của cái thơ thượng thừa Bùi Giáng. Lần đó, tôi đã hiểu tại sao Bùi Giáng cừ
cánh bướm rong chơi, cứ phiêu bồng lãng du mà vẫn có ngay nghìn câu một buổi.
Ðúng là ngủ ra thơ, thở ra thơ, uống la-de, hút thuốc lá ra thơ. Mà thơ không
ai sánh bằng, thơ không ai đuổi kịp. Ông uống cạn chai la-de, lập lại ba tiếng
bất hủ “vui thôi mà” rồi đứng lên từ biệt. Mấy tháng cuối cùng trước biến cố
1975, tôi không thấy Bùi Giáng trong đời sống tôi nữa. Chỉ tỉnh thoảng nghe thấy
ông vẫn lang thang đây đó, một quán này, một bãi hoang kia, ngủ bất cứ ở đâu,
dưới trời sao, ở một gầm cầu, dưới một mái hiên. Có lúc thấy nói ông đeo một
xâu chuỗi toàn dày dép và quần áo phụ nữ quanh cổ như một vòng gai quái dị, đám
con nít reo hò chỉ trỏ người điên, người điên. Có khi nghe thấy, ông ẩn lánh ở
ngôi chùa vùng ngoại vi thành phố, ăn chay niệm Phật cả ngày không nói.
Ở trình trạng này, anh
em chúng tôi, những bạn bè một thời thân thiết với Bùi Giáng, từng đã chén thù
chén tạc với Bùi Giáng bao lần trên căn gác đường Lý Thái Tổ của nhà xuất bản
An Tiêm, nhận sách tặng của Bùi Giáng, ở với ông và trời thơ trác tuyệt của
ông, chúng tôi biết chúng tôi chẳng làm gì cho Bùi Giáng được nữa. Chẳng phải bỏ
ông. Ông cũng không bỏ. Chỉ là ông đã đi khỏi, đi xa, vào một trời đất khác.
Hai câu thơ hay tuyệt
hay vào tập cho tập Mưa Nguồn: “Xin chào
nhau giữa con đường/ Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau” mang một ý
nghĩa khác. Lời chào như một xa cách vĩnh viễn. Một bỏ đi. Một vĩnh viễn. Cái
kho tàng chữ nghĩa phong phú vô tận ở đó Bùi Giáng vừa tạo dựng nên cái thế giới
ảo huyền của mình vừa phá hủy tan tành cái thế giới ấy, kho tàng ấy thi sĩ
không thèm sử dụng nữa, và chúng tôi chẳng còn con đường nào tới được với ông.
Bùi Giáng đã đem lại cho
cuộc đời biết bao nhiêu châu ngọc. Bằng tài thơ trác tuyệt. Bằng cõi ngôn ngữ ảo
diệu, không tiền khoáng hậu. Có ông, thi ca mới đích thực có biển có trời. Từ ấy,
thi ca mới không cùng không tận. Ðọc lại Mưa Nguồn, đọc lại Ngàn Thu Rớt Hột,
Bài Ca Quần Ðảo, tôi còn muốn bật cười với thơ Bùi Giáng. Vui thôi mà. Ðúng vậy,
vui thôi, có khác gì đâu. Mất Bùi Giáng , thơ ta lại trở về với cái hữu hạn đời
đời của thơ. Nhiều người bảo ông chỉ là một thằng điên. Tôi chỉ muốn nghĩ thầm
cho tôi là nếu có thêm được ít người điên như Bùi Giáng, thơ ca ta văn học ta
còn được lạ lùng được kỳ ảo biết bao nhiêu.
Mai Thảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét