2/5/22

2.379. CÓ MỘT DÒNG SÔNG ĐÃ QUA ĐỜI

 Lê Đức Thịnh

   Tiễn biệt anh Nguyễn Hải Triều

Bài đăng trên Tạp chí Đất Quảng
số 212/ tháng Năm 2022


Vậy là anh Nguyễn Hải Triều đã từ biệt chúng ta như một quy luật sinh tử của đời sống.

Có những cái chết là hết nhưng cũng có những cái chết còn lưu lại… Tôi nhớ đến câu trích của Jorge Luis Borges – nhà văn Argentina: “Khi các nhà văn mất đi họ trở thành những cuốn sách, rốt lại, đó là một sự hóa thân thật tuyệt” (When writers die they become books, which is, after all, very good an incarnation).

Với hơn mười tác phẩm văn nghệ gồm đủ thể loại: thơ, biên khảo, truyện ngắn, dân ca kịch… để lại cho bạn văn, cho đời, anh Nguyễn Hải Triều đã hóa thân trong những con chữ - mà đôi khi ngồi đọc lại, chúng ta vẫn thấy anh hiện tồn đâu đây trong trang viết, trong ký ức bạn bè.

***

Hồi anh Nguyễn Hải Triều ra tập thơ “Lời ru lá cỏ”, cái cách anh sung sướng khi đi tặng sách cho bạn văn cũng là đáng nhớ. Dường như cái sự chia sẻ của người thơ với bạn đọc là một nhu cầu như yêu, như sống, như sướng vậy. Dù anh em vẫn gặp nhau mỗi ngày nhưng gặp nhau để tặng sách dường như với anh là một sự kiện: tất bật, vội vã, vui vẻ và không cần phải chỉn chu trong nghi thức.

Nhiều lần sau này vẫn thế, anh trao tặng bạn bè tập sách cuối cùng Như Gió Thôi Trăm Năm vào ngày cuối năm, lúc đã yếu, vẫn thế.

Những lần như thế, tôi đọc được đó là trạng thái “không thể trì hoãn cái sự sung sướng lại được” – và chúng tôi không muốn trì hoãn trong anh điều ấy.

Điều đó hiển nhiên bởi mỗi tác phẩm là đứa con tinh thần của nhà văn và khi nó ra đời thì không chỉ là con của nhà văn nữa mà tác giả muốn nó là con cháu yêu quý của bạn văn, bạn đọc.

Các tác phẩm của anh dù thuộc bất cứ thể loại nào đều được viết với một phong cách ngôn ngữ giản dị, ngồn ngộn chất liệu đời sống và dễ đi vào lòng bạn đọc. Nó đượm cái hồn quê trầm mặc và tình người bao dung trong mọi diện mạo.

***

Tôi đọc thơ của anh và nghiệm ra cái chất “nhà quê” hiện ra khá đậm nét từ hình thức đến nội dung. Chợt nhớ Nguyễn Mậu Hùng Kiệt từng gọi vui Nguyễn Hải Triều là “Gã nhà quê” khi Kiệt viết về tập Rơm Rạ Mùa – của anh ra mắt 2007. Điều ấy chắc đúng.

Trong âm nhạc có thể loại nhạc đồng quê (country) mà Mỹ là quốc gia có những ca khúc thuộc thể loại country nổi tiếng như: Green field, Love is blue, Sound Of Silence… và thiết nghĩ cũng nên có một định danh thơ đồng quê như một dòng chảy trong mạch nguồn thơ ca với những điển phạm thi pháp của nó - như lịch sử văn học cũng đã từng ghi nhận Nguyễn Khuyến với chùm thơ thu của ông.

Từ Rơm Rạ Mùa, Lời Ru Lá Cỏ, Tròn Tròn Khuyết Khuyết, Tiếng Gàu Rơi Và Dòng Sông Mùa Cũ… đến tập cuối cùng Như Gió Thổi Trăm Nam Cỏ là một bước đi dài vững chắc của Hải Triều trên chặng đường thơ và dường như nó cũng định hình phong cách thơ “Đồng quê” của anh. Điều đó thể hiện khá đầy đủ ở các yếu tố ngôn ngữ, hình ảnh, cảm xúc mang đậm bản sắc quê hương trong con chữ, trong tư duy, trong xúc cảm nghệ thuật trong suốt các chặng đường sáng tác của anh chứ không phải chỉ là một cảm nhận thuần túy chủ quan.

Những hình ảnh bãi bồi, dòng sông, mảnh vườn, con đường làng, tiếng chim, lục bình… dường như là những ám tượng ký ức đồng quê trong thơ anh.

“Bữa về chỉ bến và tôi/ Ngẩn ngơ một cánh buồm trôi giữa dòng” (Lục bát gởi sông).

“Con đường mờ dấu chân trưa/ Cỏ hoang ngập lối chỉ vừa xa xăm” (Chuyện xưa).

Có lẽ cái hồn đất, tình người của miền quê trung du nơi đầu nguồn con sông Vu Gia đã lặm vào trong anh để phát tiết thành những dòng thơ giản dị mà ý vị như dòng chảy quê nhà.

“Hình như đã mùa sim đang trổ nụ/ Tim tím đường về em đợi ta không/ Thuở đầu non chúng mình mây bạc tóc/ Mắt cỏ ngậm ngùi nỗi nhớ hóa mênh mông…” (Thơ bốn câu 2).

Những câu thơ đồng quê trong sáng tác của Nguyễn Hải Triều khá nhiều. Nhiều như những bông hoa, lá cỏ bên triền sông bồi lở mà mỗi một cá thể mang nét đẹp riêng không lẫn vào nhau. Có khi đó là cánh hoa hồn nhiên mênh mang đồng nội, có khi là bông hoa e ấp trong lẵng hoa… Chúng được Hải Triều hái lượm, nhặt nhạnh, lưu giữ và cảm thưởng trong dấu khắc khác nhau của kí ức thời gian: “Em có thể vẽ những vòng tròn/ Về ký ức và khát vọng đã làm nên chiếc lá/ Như mùa màng nói với tôi tình yêu hoa trái/ Ở mỗi cuộc đời…” (Khúc lá).

***

Một mảng thơ khác cũng khá đậm chất trong các trang viết của anh là thơ về những năm tháng chiến đấu gian khổ với tình đồng chí đồng đội. Dường như thời trận mạc đã làm nên cái cá tính của anh: ngang tàng, mạnh mẽ, thích trạng thái cảm giác tới đỉnh, coi cái chết nhẹ hều, chơi ngông tới bến, nói năng thẳng thắn, dám mổ xẻ, không ngại va chạm… Điều này khiến anh được bạn bè, nhất là đồng đội năm xưa yêu mến: “Trận đánh năm nào bạn về đất tuổi hai mươi/ Cứ tưởng mình cũng thành hoang phế/ Mới hiểu rằng muốn quên đâu dễ/ Nỗi riêng chung ray rứt cả một đời” (Hoài niệm chiều cuối đông)…

Cà tất nhiên nhiều kẻ có tật cũng giật mình khi đọc anh: “Thời buổi bây giờ nhiễu nhương lắm mày ơi/ Hôm qua mới nghe chuyện tham ô ngàn tỷ/ Phía Bắc phía Nam/ Giữa phẩm giá con người và lòng ích kỷ/ Trắng đen/ Xanh đỏ tím vàng…” (Uống rượu với bạn).

Nhưng dù gì đi nữa, trong trang viết của anh, chúng ta cảm nhận cái tôi trữ tình trong chiều sâu của phức cảm bung lung về tình yêu, trắc ẩn con người và cuộc đời: “Ngày sông trôi mất câu thề/ Tròng trành gánh nhớ quảy về phù sa/ Ngày em vàng bóng trăng sa/ Rủ phấn hương/ đợi bướm hoa muộn màng…” (Lục bát nhớ).

Thơ Nguyễn Hải Triều không cầu kỳ triết lý nhưng ẩn chứa nhiều nỗi niềm nhân sinh, tình quê, tình người. Điều thú vị nhất là nhiều câu thơ của anh đã tách ra khỏi chỉnh thể để sống độc lập trong lòng bạn thơ: “Cau vàng vôi trắng trầu xanh/ Ngày em búi tóc  mà thành sơn khê…” (Rơm rạ mùa).

***

Trong khi nhiều nhà thơ đương đại đang nhọc nhằn trong cuộc chơi tung hứng chữ nghĩa, đánh đố người đọc bằng nhiều ẩn ngữ, biến ngữ “Hậu hiện đại” thì Nguyễn Hải Triều tắm gội trên bến sông thơ của riêng mình với niềm vui thú và cá tính của người thơ. Thơ anh không lẫn với ai khác, không cách tân ồn ào mà lặng lẽ thăng hoa những cái mới từ trong mạch chảy của dòng sông lúc thì bình lặng nhưng cũng có khi vật vã thác ghềnh để rồi tạo ra bản phối tưởng riêng biệt giữa hiện tại với quá khứ trong những ám tượng đồng quê gần gũi mà luôn là niềm ưu trắc.

Và quan trọng hơn là anh đã để lại nhiều dấu ấn trong lòng bạn đọc quê nhà.

Nguyễn Hữu Vĩnh đã viết về anh: "Trong cái tịch lặng của đêm sông vẫn một mực phù sa và vỗ sóng. Trong cái tĩnh lặng cõi lòng anh vẫn một mực tận tụy và yêu thương. Sông hay phiên bản của đời anh đã sống đẹp trọn cuộc đời mà hóa công ban tặng. Đó là cái bản thể nguyên khôi, nguyên vẹn đáng trân trọng trước biển cạn đá mòn."

Vâng, với tôi, Vĩnh và nhiều người đọc khác, anh là thi sĩ của dòng chảy đồng quê. Là người bạn thơ để chia sẻ và trao đổi. Là người anh để chúng tôi ngồi nghe những câu chuyện vui, chuyện tếu táo, chuyện đời, chuyện lính…

Những lúc như thế dường như anh làm mới mình, hồi sinh mình bằng một phiên bản tươi trẻ, máu lửa từ những thứ anh đã trải qua.

Tôi nhớ một lần nọ, trong cuộc rượu, lúc đã ngà say, Nguyễn Hải Triều khật khưỡng nói vui với mọi người trong bàn rượu rằng: “Rượu cũng có số má, có đẳng cấp như người. Có thứ rượu nhâm nhi mới tận hưởng được kì vị như bạn thân như tình nhân. Có thứ chỉ rót ra để tuôn trào xem chơi như rượu Sâm banh trong tiệc cưới cũng như người để xã giao để ngắm nghía. Có loại rượu được ngâm ủ nâng niu kỳ công nhưng cũng có loại rượu cồn pha chế dễ dãi. Có thứ rượu cất nơi hầm mát mới cho kỳ hương, kỳ vị nhưng cũng có thứ rượu phải vật vã trong nồi chưng cất thì mới cho con người những giọt kỳ linh, kỳ ảo – những thằng lính như đồng đội tao đây". 

Anh nói thật chí lí, hóa ra trong rượu có người và trong người có rượu. Là người thơ, người rượu, anh nghiệm ra thành lẽ - thú vị và hay.

***

Ở thể loại bút ký, tản văn anh cũng để lại những trang chữ cồn cào đã giúp bạn đọc lật tung ký ức làng quê cố xứ với các hình ảnh: tiếng gàu rơi, mùa bắt cá bộng, chén đường non, bờ xe nước, trường làng, câu hát ru, làng nghề, sông Vu Gia, sông Thu Bồn, các miền đất, di tích… Tất cả hiện lên trong dòng hoài niệm chạy suốt thời gian quá khứ, hiển hiện trong không gian núi sông đồng bãi của quê xứ trung du mưa dầm nắng rát.

Lối viết của anh cũng thật giản dị, chẳng cầu kì biến ảo về thi pháp nhưng đó chính là tài hoa  của một tay viết đa tài xứ Quảng. Anh biến những chất liệu hiện thực thành bức chạm ngôn ngữ khắc dấu thời gian trên sông núi quê hương.

Dưới ngòi bút của anh, nhiều sự việc, sự kiện, con người rải rác đây đó ở làng quê trung du lại thành “truyện” - có cốt truyện, có nhân vật, có tính cách và khơi gợi những ám ảnh nhân sinh (Mùa bứt đót, Có một vùng đất…) mà anh mang đến cho bạn đọc trong dòng miên man nhặt nhạnh khơi gợi những điều ít người biết hay đã lãng quên (Lần theo những giai thoại, Những bến chợ và chuyện về một gánh hát…).

Đọc Tiếng Gàu Rơi Và Dòng Sông Mùa Cũ cũng như các biên khảo khác của Nguyễn Hải Triều, chúng ta không chỉ cảm nhận về nếp quê, con người của một miền đất “Dưới chân núi lớn” (1) mà anh còn gợi những dấu ấn về những miền quê khác của xứ Quảng, rộng hơn là trên khắp quê hương đất nước chúng ta với những trầm tích văn hóa làng xã, văn hóa ứng xử, văn hóa văn nghệ dân gian, ẩm thực làng quê, làng nghề, văn hóa chợ quê, phong tục… được tác giả ấp iu trong một bảo tàng cá nhân khá trang trọng.

Trong mỗi trang kí của mình, khi thì anh đem đến cho bạn đọc một tiếng cười nhẹ nhàng mà sảng khoái (Hát xạo); khi thì khoái chí vì sự thông minh trong lời hát dân gian (Điều thú vị); khi thì miên man hoài niệm (Ký ức làng, Xa xăm trường cũ); khi thì đau đáu tiếc thương (Câu chuyện dòng sông)

Nói như Lê Trung Việt là “lạnh người… thư thái và thật nhớ về ngày cũ, ngày xưa, ngày đó ngày xanh lên khung trời thơ trẻ. Đọc để nhớ và để buồn…”

***

Nguyễn Hải Triều đã chia tay chúng ta, anh bỏ lại những câu chuyện kể dở, những bài thơ chưa xong, những hẹn hò chưa trọn, những bản thảo để ngỏ…Dù đó là những điều tuyệt diệu mới mẻ hay đùa cợt chọc khuấy thì nó vẫn đẹp đẽ và đáng nhớ trong ký ức bạn bè về một tính cách. Nói như Gabriel Garcia Marquez: “Trí nhớ của trái tim xóa đi những điều xấu và phóng đại những điều tốt đẹp”.

Trong cái cảm xúc dâng lên khi chứng nghiệm vọng âm từ “Tiếng gàu rơi và dòng sông mùa cũ” cùng các trang viết thấm đẫm tình yêu của anh, chúng ta cảm thấy luyến tiếc vì “Có một dòng sông đã qua đời” (2) – nhưng chỉ cần có tình yêu, thì mọi dòng sông dù đã cạn đều sẽ tuôn chảy trong đất đai quê xứ - chúng vẫn đẹp và vẫn tình như vậy.

L.Đ.T.

------------------------

(1): Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng địa danh Đại Lộc có nghĩa là “Dưới chân núi lớn”.

(2): Dẫn theo tựa một ca khúc của Trịnh Công Sơn.

 

Không có nhận xét nào: