Nguyên Ngọc
Tôi đăng lại bài viết của nhà văn Nguyên Ngọc từ Tạp chí Văn nghệ Quân Đội số 967 - ra cuối tháng 6-2021, để tỏ lòng yêu kính tác giả, một trí thức đáng trọng của đất Quảng - nhất là trong những ngày này, ông đang chịu nỗi đau mất đi người vợ thân yêu của mình. Tôi cũng giữ nguyên lời dẫn của bạn Biên tập viên Tạp chí khi bạn ấy chia sẻ bài lên trang cá nhân của mình.
Chuyện là nhẹ nhàng giản
dị thế này: VNQĐ số 967 ở phần “Bình luận văn nghệ” có in bài viết “Như là cái
lõi vàng ròng của đời sống…” của nhà văn Nguyên Ngọc - một lão tướng thuộc thế
hệ 'vàng ròng' sáng lập nên VNQĐ. Dăm bảy năm trở lại đây, phần “Bình luận văn
nghệ” trên VNQĐ có vệt bài của các nhà văn lớn tự sự về việc họ đã trở thành
nhà văn như thế nào. Đọc được bài viết ngắn và/mà vô cùng đẹp của nhà văn
Nguyên Ngọc, thấy vừa phù hợp vừa có thể làm sang cho cái mục (không có mũ)
này, sau khi được nhà văn Nguyên Ngọc đồng ý, tôi đã đề nghị các sếp VNQĐ duyệt
in bài. Bài có tên gốc là “Châu Công tử - quý tộc Hội An thời vang bóng”, nhưng
tôi đã xin phép đổi thành “Như là cái lõi vàng ròng của đời sống…”
Cái tên mới này, lẩy ra từ
trong bài, là một vế câu mà tác giả bài viết dùng để định danh nhân vật Châu
Công tử. Khi làm tên bài, tôi ngầm muốn dành cho cả tác giả bài viết, dẫu vẫn
biết đương nhiên là thế rồi...
***
NHƯ LÀ CÁI LÕI VÀNG RÒNG
CỦA ĐỜI SỐNG...
Nguyên Ngọc
Chuyện này đến nay có lẽ
chỉ còn mình tôi biết. Tôi muốn kể lại, trước hết vì Hội An của tôi, để Hội An
hiểu thêm rằng mình từng "lạ" và “hay” đến thế nào. Đặng mà cố giữ
nó.
Năm ấy hình như tôi khoảng
12 tuổi, cũng có thể chỉ mới 11 vì đến Cách mạng tháng Tám 1945 tôi vừa 13, mà
theo tôi nhớ thì ông Nguyễn Tuân tới Hội An trước Cách mạng đâu khoảng vài ba
năm.
Ba tôi, bấy giờ gọi là
“thầy thông bưu chính”, tức đã có đến bằng diplôme, hồi ấy thế cũng là trí thức
bậc trung. Hình như ông định biến con trai mình thành một nhà bác học, hay tệ
nhất cũng là một nhà văn lừng danh. Ông có lối dạy con rất đặc biệt: bắt tôi đọc
hầu như toàn bộ văn học Việt Nam đương thời, từ Tự Lực văn đoàn cho đến Tiểu
thuyết thứ bảy, rồi Phổ thông bán
nguyệt san, đọc hết luôn tủ sách Văn
Mới của Hàn Thuyên, các tạp chí Thanh
Nghị, Tri Tân, tất nhiên không thể thiếu báo Ngày nay…, cả Tây sương ký
và Trang Tử Nam Hoa kinh qua bản dịch
của Nhượng Tống.
… Còn sách Tây thì tôi phải
đọc trước chương trình quy định ở lớp một, có khi đến hai năm. Ngốn toàn bộ Những người khốn khổ'và Nhà thờ Đức Bà Paris của Victor Hugo,
tra từ điển Larousse đến mờ mắt để lần cho ra cái đoạn lê thê ông nhà văn lắm lời
này tả các cánh cửa rậm rạp của nhà thờ Đức Bà… Tôi biết ơn ba tôi đã biến tôi
thành một con mọt sách suốt đời.
Bây giờ nhớ lại, cứ như
ngày ấy tôi vì say sách mà đã thành kẻ mộng du, mới 11 hay 12 tuổi mà đêm nào
cũng lang thang một mình trên các đường phố Hội, thường rất khuya, chỉ đi một
mình thôi - anh ấy dặn vậy, tìm đến một ngôi nhà cổ bé tí và sâu hun hút. Nhà ấy
có hai mặt đường như tất cả các nhà trong phố cổ Hội An, một mặt quay ra Rue du
Pont japonnais (đường Chùa Nhật Bản) nay là Trần Phú, mặt kia trổ ra Rue
Cantonnais (đường Quảng Đông) nay là Nguyễn Thái Học.
Đấy là nhà của một vị nho
học nổi tiếng có cái tên rất lạ: Châu Phi Cơ. Lúc nào cũng thơm nồng mùi thuốc
bắc, về đêm càng sực nức. Khuya, tôi gõ cửa rất khẽ, đúng ra là chỉ cần chạm nhẹ
vào cái khuy đồng ở cửa, lập tức “hạt vừng” từ từ mở ra. Anh Châu Tường Anh, mới
nghe tên đã biết tất phải là người rất sang trọng, rất quý tộc, hình như đêm
nào cũng sẵn chờ tôi sau cánh cửa dày và nặng, trong đêm đẹp như một bức sơn
mài ấy. Vâng, một nhà quý tộc trẻ. Thanh mảnh, hơi gầy và cao, lúc nào cũng mặc
áo dài hai lớp, áo dài trắng bên trong áo lương đen mỏng tang. Hội An ngày ấy
có một lớp “quý tộc” như vậy của mình. Một lớp quý tộc chập chờn giữa hai thời
đại. Còn nho nhã phương Đông, nhưng đọc rành Tây và thường nói chuyện với nhau
bằng tiếng Tây. Một lớp quý tộc nghèo mà sang. Những La Hối, Lê Trọng Nguyễn,
Dương Minh Ninh, Dương Minh Hòa, Lưu Nghi…, tất nhiên cả gia đình họ Nguyễn Tường,
những người đã mang tinh hoa phố Hội quê hương tự trong máu của mình ra trộn với
tài hoa Cẩm Giàng Hải Dương để làm nên Tự
Lực Văn Đoàn, cả một thời đại trong văn chương xứ Việt như Hoài Thanh từng
nói… Và anh Châu Tường Anh nữa, bạn vong niên của tôi. Anh lớn hơn tôi đâu chỉ
ba hay bốn tuổi, ở tuổi đó cách nhau chừng ấy đã gần cả một thế hệ rồi, vậy mà
anh kết nạp tôi vào thế hệ anh. Vì anh biết tôi cùng mê sách. Những người mê
sách thì bình đẳng trước văn hóa và vĩnh cửu, và không có tuổi.
Nhà tôi cũng có một tủ
sách, tất nhiên, dày cộp. Nhưng làm sao dám sánh với sách của anh Châu Tường
Anh, dù anh có cuốn nào tôi cũng có đúng cuốn ấy, không sót. Nhưng sách của tôi
là sách “thường”, tầm thường, bán đại trà, cứ ra phố là mua được, mua hàng lô
cũng còn được nữa là, những cuốn sách “vô danh”, cũng còn có thể gọi là “vô chủ”,
nghĩa là ai có cũng được, không đặc biệt là của riêng ai hết, có thể trôi nổi,
nay vào tay người này mai vào tay người kia. Lại nữa, không từ đâu đến, không
ai trao cho mình cả, mình có tiền mình đi mua, có thể nơi một quầy vô danh bất
kì ở một hiệu sách vô danh bất kì. Theo một nghĩa nào đó, một cuốn sách như thế
không có “cá tính”, không phải là riêng nó, chỉ riêng nó, không có hai, duy nhất,
đơn nhất, như một người bạn, người thân, người yêu, của riêng mình… Có một dấu
hiệu cho loại sách đó: mép sách được, hay bị, xén bằng dao kim loại, xoẹt một
cái phẳng lì, tăm tắp, chắc cũng có thể với máy móc hiện đại xoẹt một cái xén
phẳng sạch bong hàng chục cuốn…
Tôi để ý, trên bàn của
anh Châu Tường Anh tuyệt không có một con dao kim loại nào. Thư phòng của anh ở
trên gác, nhỏ thôi, tường gỗ, bốn mặt tường đều là sách. Và tuyệt không có cuốn
sách nào bị xén “công nghiệp”. Trên bàn có một con dao bằng ngà, trắng nhờ. Bởi
vì ở đây chỉ có toàn những cuốn sách được in hai tờ, hay bốn tờ, dính vào nhau,
phải rọc ra. Con dao ngà kia là để rọc.
Ngày ấy sách được in như
thế này: Ở những nhà xuất bản lớn, những cuốn sách hay của những tác giả tên tuổi,
bao giờ ở trang giáp cuối cũng có ghi “… ngoài những bản thường, có 50 (hay
100) bản đặc biệt, in trên giấy dó (hay giấy Lafuma), được đánh số từ A1 đến…,
có chữ kí của tác giả và không bán”. Không bán, vì nó vô giá.
Bây giờ đến lúc tôi khoe
với các bạn rồi đây: 11 hay 12 tuổi, tôi đã có được một người bạn vong niên,
anh Châu Tường Anh, của Hội An tôi, là chủ nhân của một tủ sách gồm toàn những
cuốn như thế. Và đêm đêm, gần suốt tuổi thơ, như một kẻ mộng du, tôi bỏ nhà
lang thang trên các đường phố Hội vắng tanh, một mình tìm đến ngôi nhà cổ nhỏ
xíu trên đường Chùa Cầu Nhật Bản, chỉ chạm nhẹ vào cánh cửa nặng trịch thì vừng
liền mở ra, và anh bạn vong niên của tôi, áo dài trắng bên trong áo lương đen,
không nói một lời dắt tôi lên thư phòng của anh. Tôi ngồi yên trên một chiếc ghế
nhỏ, nhìn anh chậm rãi lấy từ giá xuống một cuốn sách mới, không bao giờ tôi biết
từ đâu mà anh có được, tôi không bao giờ dám hỏi. Tôi ngồi yên, sững sờ ngắm
anh thực hiện cái nghi lễ thiêng liêng của người mê sách. Đôi bàn tay các ngón
đẹp như của một nghệ sĩ dương cầm, cầm con dao ngà, rất chậm, rất nhẹ, như sợ
làm đau giấy, rọc từng trang sách, mép giấy dó nhẹ nhàng xơ ra, một chút bụi giấy
vàng mong manh bay lên và rơi xuống lấm tấm li ti trên mặt bàn. Tôi những muốn
được đưa ngón tay chấm nhẹ một hạt bụi ấy, mà không dám…
Vậy đó, mỗi đêm, một cuộc
thôi miên… Tôi không đọc sách ở nhà anh Châu Tường Anh, những cuốn sách ấy ở
nhà tôi cũng có, bản in phàm, bán đại trà, ba tôi mua. Tôi đến nhà anh Châu Tường
Anh, đêm đêm, mộng du, là để chiêm ngưỡng những cuốn sách vô giá của anh, được
ngửi mùi thơm vừa thoảng vừa ngậy đặc trưng của giấy dó và của mùi bụi giấy lấm
tấm bay ra khi anh rọc sách bằng con dao ngà màu trắng đục. Tôi cứ ngỡ bụi “phấn
thông vàng” của Xuân Diệu cũng đẹp như thế, thơm nhẹ và sâu như thế, tuy mãi mấy
mươi năm sau tôi mới được biết phấn thông vàng thực ở Tây Nguyên. Cũng có hôm
anh Châu Tường Anh cho tôi được tự tay dở vài trang sách. Rất lạ, những trang ấy
tôi đã đọc ở nhà rồi, có khi đến thuộc lòng, vậy mà ở đây mỗi con chữ đều long
lanh, và vang lên một cách khác… Nói thế nào nhỉ, chúng trở nên quý tộc hơn,
sang trọng hơn, và bỗng như trở nên bí mật hơn… Vâng, mỗi đêm tôi được hưởng một
nghi lễ như vậy của cái đẹp…
Cho tới một bữa, vừa bước
lên gác tôi đã nhận ra mùi hương trầm. Anh Châu Tường Anh không nói một lời, lặng
lẽ chỉ cho tôi ngồi xuống ghế, và ra hiệu cho tôi phải để hai bàn tay xuống bên
dưới mặt bàn. Nghĩa là tuyệt đối không được sờ đến bất cứ thứ gì. Và ngồi đó chờ…
Rất lâu. Rồi anh nhẹ nhàng nhấc từ trên giá xuống một cuốn sách mới tinh. Sách
đã rọc. Các mép giấy dó xơ ra, còn giữ nguyên từng sợi vàng óng. Chỉ những người
chuyên chơi sách mới biết, sách đẹp chính là ở những xơ giấy dó được giữ quý
như vàng đó. Tôi nhìn trân trân. Cuốn “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân. Anh
Châu Tường Anh dùng mũi dao ngà khẽ lật trang bìa, rất chậm rãi, đến trang lót,
rồi càng chậm rãi, đến trang thứ ba. Và tôi sững sờ: lời đề tặng của chính ông
Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân ngày ấy là huyền thoại của chúng tôi. Tự tay ông viết,
cái ông Nguyễn Tuân tài hoa, phiêu bạt và ngang tàng ấy, tự chính tay ông viết,
như múa, không phải “Tặng anh Châu Tường Anh”, cũng không phải “Kính tặng anh
Châu Tường Anh”, mà là “Kính tặng Tường Anh Châu công tử”… Và bên dưới, chữ kí
bay lên, như khói. Có người bảo, đấy là hình tượng một cánh buồm lộng gió.
Ôi ông Nguyễn Tuân, chỉ
có ông mới nghĩ ra được như vậy, mới viết được như vậy. Tôi có hỏi kĩ một anh bạn
chuyên nghiên cứu văn bản học, anh ấy khẳng định trước Cách mạng tháng tám Nguyễn
Tuân đến Hội An chỉ một lần, năm 1941, và viết tùy bút Cửa Đại nổi tiếng. Năm đó tôi đúng 11 tuổi. Anh Châu Tường Anh của
tôi lớn hơn tôi đâu bốn hay năm tuổi, tức khoảng 15 hay 16. Mà đã “Châu công tử”,
kì lạ không, đã có thể kết bạn với ông Nguyễn Tuân, đã được chính ông Nguyễn
Tuân huyền thoại kết bạn tâm đắc đến mức tự tay trân trọng tặng Châu công tử một
cuốn “Vang bóng một thời” in giấy dó vàng ươm!
Vâng, Hội An của tôi là vậy
đó. Cho phép tôi nói điều này, một thành phố chỉ có thể thật sự là “thành phố
văn hóa”, như Hội An, khi nó có, từng có, và biết giữ một lớp tinh hoa cấp cao,
một lớp quý tộc văn hóa như thế, có thể nhỏ thôi, có thể nghèo, nhưng là quý tộc,
sang trọng, như là cái lõi vàng ròng của đời sống tinh thần và văn hóa chung.
Chắc tôi phải nói thêm
chút nữa về người bạn vong niên kì lạ của ông Nguyễn Tuân ở Hội An, anh Châu Tường
Anh quý tộc nghèo của tôi. Anh mất vào những ngày đầu kháng chiến chống Pháp cuối
năm 1946. Không ai biết thật rõ về cái chết của anh. Chỉ nghe đồn đâu đó ở cửa
sông Thu Bồn. Anh quen biết, và hẳn gắn bó nhiều với gia đình Nguyễn Tường của
Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Ta biết, họ là Quốc dân đảng. Trong những ngày cực
kì rối ren, sôi nổi, hào hùng và thảm khốc của một cuộc chiến tranh ác liệt
đang bắt đầu.
Lịch sử mà…
N.N.
Nguồn: VNQĐ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét