BA MƯƠI NHÀ VĂN VĨ ĐẠI NHẤT MỌI THỜI ĐẠI (tiếp theo phần 3)
Tiếng Anh văn chương thường
được gọi là ngôn ngữ của Shakespeare và
Milton. Điều ấy nói lên thơ của Milton được coi là cách diễn đạt thơ hoàn hảo
nhất bằng tiếng Anh trong suốt bốn thế kỷ.
Tác phẩm thơ nổi tiếng
nhất của ông, sử thi Paradise Lost (Thiên
đường đã mất) là đỉnh cao của thơ sử thi Anh. Nó được in lần đầu tiên
năm 1667 gồm 10 quyển; tái bản năm 1674 gồm 12 quyển. Thiên đường đã mất được in lại nhiều lần
và được dịch ra rất nhiều thứ tiếng của thế giới, trong đó có tiếng Việt.
Sau Thiên đường đã mất, Milton
viết tiếp Thiên đường trở lại. Cả
hai tác phẩm tiêu biểu này phản ánh đầy đủ đời sống chính trị nước Anh đương
thời cũng như số phận cuộc đời của chính tác giả.
Câu chuyện đã đi vào văn
hóa Anh và châu Âu đến mức các chi tiết trong suy nghĩ của chúng ta về thiên đường,
địa ngục, Adam - Eve, quỷ Satan chống lại Chúa, thiên thần Gabriel và tất cả
các nhân vật Genesis và các sự kiện… đến từ trí tưởng tượng của Milton trong
bài thơ này. Mặc dù tác phẩm của Milton ngày nay không được đọc nhiều nhưng ông
vẫn được nghiên cứu tại các trường đại học với mong muốn cung cấp cho sinh viên
của họ nền tảng về thơ cổ điển Anh.
Thiên đường đã mất là một thiên sử thi bằng thơ không vần (blank
verse) kể về lịch sử của con người đầu tiên – Adam mà cốt truyện dựa theo Kinh Thánh. Trong trường ca này Adam và
Eve đã sống một cuộc sống ân ái vợ chồng trước khi vi phạm điều cấm và bị đuổi
khỏi thiên đàng. Trong đó Eve là một phụ nữ rất xinh đẹp và độc lập với
chồng. Sau khi nghe lời con rắn dụ dỗ đã ăn trái cấm, nàng đưa cho chồng cùng
ăn và Adam đã ăn trái cấm vì tình yêu đối với Eve, mặc dù thiên thần Raphael đã
từng cảnh báo trước… (Xem thêm tại đây)
Paradise Lost có tất cả các yếu tố của sử thi Hy Lạp, chẳng hạn như phép ẩn dụ mở rộng; một anh hùng có ý nghĩa vũ trụ (Satan); một bối cảnh bao trùm toàn thế giới hoặc trong trường hợp này là vũ trụ; những hành động chiến đấu vượt ra ngoài những hành động chiến tranh thông thường; sự can thiệp của các đấng siêu nhiên vào công việc của con người; và ngôn ngữ phù hợp với các sự kiện được nâng cao và các nhân vật của sử thi. Đó là đặc điểm cuối cùng khiến người đọc hiện đại xa rời thơ của Milton nhất.
Mặc dù vào thời điểm ông
qua đời, Paradise Lost đã được coi là bài thơ hay nhất bằng tiếng Anh nhưng ông
đã chết trong nghèo khó, do quan điểm cộng hòa và sự tham gia chống chế độ quân
chủ của ông.
11. John Bunyan (1628 –
1688):
John Bunyan là một nhà
thuyết giáo dòng Baptist và nhà văn nước Anh. Cuốn sách đã đưa ông trở thành ứng
cử viên cho hạng mục một trong những nhà văn có ảnh hưởng nhất là The Pilgrim’s Progress (Hành trình người
hành hương), một câu chuyện ngụ ngôn đã định hình cách các Cơ đốc nhân nghĩ về
đời sống tôn giáo của họ. Đó là một cuốn tiểu thuyết được đọc
nhiều nhất mọi thời đại và là cuốn sách được đọc nhiều thứ hai sau cuốn Kinh thánh. Nó đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ và đã có tác động lớn trên toàn thế giới so với bất
kỳ cuốn tiểu thuyết nào về văn học, ngôn ngữ, tôn giáo và văn hóa.
Trong văn học ngụ ngôn, nơi con người, địa danh và tên đồ vật chỉ rõ ý nghĩa đại diện duy nhất, các ký tự cho đến nay đều phẳng lặng và buồn tẻ nhưng trong The Pilgrim's Progress, những ký tự tròn trịa giống con người hơn là các ký tự giấy của thời trung cổ và gói theo những câu chuyện đạo đức. Câu chuyện ngụ ngôn trong cuốn sách của Bunyan kể một câu chuyện đơn giản. Một ngày nọ, Christian phát hiện ra rằng anh ấy có một gánh nặng trên lưng, đại diện cho tội lỗi của anh ấy, và vì vậy, theo gợi ý của Nhà truyền giáo, anh ấy đi từ Thành phố Hủy diệt, nơi anh ấy luôn sống, đến Cổng Wicket, nơi anh ấy sẽ tìm thấy đường thẳng. và con đường hẹp sẽ dẫn anh ta đến Thành phố Thiên thể. Trên đường đi, anh ấy phải đối mặt với nhiều khó khăn, nguy hiểm và trở ngại nhưng anh ấy cũng nhận được sự giúp đỡ từ những người khác và được hỗ trợ bởi hai người bạn đồng hành của mình, Faithful và Hopeful. (Xem thêm tại đây)
Các nhà văn đã nhiều lần sử dụng các địa điểm và nhân vật trong cuốn sách của Bunyan làm tiêu đề cho tiểu thuyết của họ, chẳng hạn như quyển Mr Standfast của John Buchan và Hội chợ phù hoa của Thackeray. Các tiểu thuyết gia thế kỷ 19 thường nhắc đến Hành trình của người hành hương vì biết rằng độc giả sẽ chọn các tài liệu tham khảo và áp dụng chúng để hiểu và đánh giá cao các tiểu thuyết họ đang đọc: các nhà văn như Charlotte Bronte, Mark Twain, Charles Dickens, Louisa May Alcott, và khác. Cuốn sách của Bunyan đã làm phong phú thêm ngôn ngữ tiếng Anh với các cụm từ như: Vũng lầy tuyệt vọng (Slough of Despond), Sự tuyệt vọng khổng lồ (Giant Despair), Thung lũng ô nhục (Valley of Humiliation), Hội chợ phù hoa (Vanity Fair)…
Pilgrim’s Progress luôn được trẻ em và cha mẹ chúng yêu thích. Đối
với trẻ em, đây là một cuốn sách thú vị về cuộc phiêu lưu, nguy hiểm, những con
quỷ phun lửa, những cuộc đấu tay đôi chết người, những người khổng lồ bị giam cầm
trong ngục tối, v.v. Đối với bậc cha mẹ, cuốn sách giúp họ dạy trẻ các giá trị
đạo đức và tôn giáo, sử dụng các câu chuyện và ngôn ngữ để làm cho những điều
đó dễ dàng thảo luận hơn.
12. Voltaire (François-Marie Arouet) (1694-1778):
François-Marie Arouet (biệt danh Voltaire) là một triết gia,
nhà thơ, người viết tiểu thuyết người Pháp. Voltaire là một nhà văn đa năng, viết
ở hầu hết mọi thể loại văn học - bao gồm kịch, thơ, tiểu thuyết, tiểu luận, các
tác phẩm lịch sử và khoa học. Ông đã viết hơn 20.000 bức thư và hơn 2.000 cuốn
sách lớn và tập sách nhỏ. Ông là một người thẳng thắn đấu tranh cho tự do, dù gặp
nguy hiểm lớn cho chính mình. Ông là một nhà phê bình gay gắt về sự không khoan
dung, giáo điều tôn giáo và các thể chế của Pháp vào thời của ông.
Candide (Bản tiếng Việt: Chàng
ngây thơ), một cuốn tiểu thuyết, là tác phẩm tồn tại lâu nhất, vẫn phát triển
mạnh trong thế giới hiện đại.
Tóm tắt:
Candide (Chàng ngây thơ) của Voltaire viết ra nhằm mục đích trả lời
cho triết thuyết của Rousseau về Thượng đế và nhất là để phản đối chủ
trương của triết gia Leibniz, theo đó mọi sự trên đời đều sẽ càng ngày càng
hoàn thiện hơn, nên con người phải lạc quan.
Ông đưa ra một nhân vật
chính, có tính tình chất phác, quá lạc quan, thật thà đến mức ngây thơ nên người
ta phải gọi là “Chàng Ngây Thơ”. Chàng trải qua bao nhiêu tai biến, hoạn nạn mà
vẫn cứ khờ khạo, tin vào lời của thầy mình là triết gia Pangloss dạy rằng cứ lạc
quan, thế gian sẽ hoàn thiện. Chàng đã gặp bao nhiêu ngang trái, bao nhiêu bất
công, nghịch cảnh, bị hoạn nạn, gian nan, chìm nổi song vẫn không tìm được hạnh
phúc mà chàng đặt vào một người đẹp, người yêu tha thiết của chàng.
Lưu lạc vào một thế giới
hoàng kim (xứ Eldorado, một xứ tưởng tượng) chàng lấy về được ngọc vàng châu
báu kim cương, đủ thành một tài sản đưa chàng lên địa vị người giàu mạnh nhất
thế giới; vậy mà, đến khi tìm được người đẹp, thì nàng hết nhan sắc, trở thành
nô lệ, từng bị bán đi bán lại nhiêu lần; cuộc sống sóng gió của nàng đã làm cho
nàng hết đẹp, lại còn sinh tính nóng nảy, cục cằn. Lúc này đã hết tiền, chàng
chỉ có thể mua một miếng vườn để cùng vợ và các bạn cũ sống đời an phận thủ thường.
Cuốn Candide khai thác
các thực tại xã hội, chiến tranh chết chóc, động đất, dịch hạch, một thuỷ sư đô
đốc bị xử bắn, một nữ tài tử chết không có quan tài, một công nhân bị chủ chặt
tay chân. Bao nhiêu bất công trong một chế độ phong kiến tàn ác. Tác giả đưa ra
một bài học: sống trên đời, nên bác bỏ các thuyết lý viển vông, quá cao xa, nên
sống thực tế và trông vào sự làm việc mới tạo được hạnh phúc.
Cần nói thêm rằng cuốn Candide xúc phạm đến giới quý tộc nên
tác giả khi xuất bản phải ký tên khác chứ không ký là Voltaire, vì sợ bị trả
thù. Ông lo xa cũng đúng vì cuốn Candide vào năm 1759 bị hội đồng Genève tố cáo
và ra lệnh hỏa thiêu (đem đốt ở nơi công cộng).
Hiện nay cuốn sách được
dạy rộng rãi trong các trường học, và đại học của Pháp và các khoa tiếng Pháp
trong các trường đại học trên toàn thế giới. Nhà phê bình văn học người Anh,
Martin Seymour-Smith, đã gọi nó là một trong hàng trăm cuốn sách có ảnh hưởng
nhất từng được viết. Nó được ghi trong Bách khoa toàn thư về những cuốn sách vĩ
đại của Phương Tây. Cuốn tiểu thuyết đã ảnh hưởng đến các nhà văn hiện đại ở thể
loại hài hước châm biếm đen tối như Joseph Heller, Thomas Pynchon, Terry
Southern và Kurt Vonnegut ở kỹ thuật diễu nhại mà Voltaire sử dụng.
Ảnh hưởng của các tác phẩm
của Voltaire, cụ thể là Candide, đối với nền văn học sau này, là rất sâu sắc. Một
số tác phẩm của thế kỷ 20 chịu ảnh hưởng của Candide là tiểu thuyết khoa học giả
tưởng đen tối, chẳng hạn như Thế giới mới
dũng cảm (Brave New World) của Aldous Huxley, Một chín tám tư (Nineteen Eighty-four) của George Orwell và Chúng tôi (We) của Yevgeny Zamyatin.
Nhà văn Samuel Becket đã
thừa nhận ảnh hưởng của Voltaire đối với tác phẩm “Waiting for Godot” của mình.
Một số tiểu thuyết gia khác cũng xác nhận thẳng thắn rằng họ chịu ảnh hưởng từ
cuốn Candide. Candide được nhà soạn nhạc Leonard Bernstein dựng thành một vở
opera, và đã có một số bộ phim sử dụng ý tưởng hay cốt truyện từ Candide, trong đó có bộ phim dài tập Play of the Month năm 1973 của BBC.
Voltaire có ảnh hưởng to
lớn trong sự phát triển của cách tiếp cận lịch sử hiện đại, thể hiện những cách
nhìn mới về quá khứ loại bỏ hệ quy chiếu Cơ đốc giáo vốn là truyền thống trong
việc viết lịch sử. Voltaire là học giả đầu tiên thực hiện một nỗ lực nghiêm túc
để viết lịch sử thế giới, loại bỏ các khuôn khổ thần học để ủng hộ kinh tế, văn
hóa và lịch sử chính trị.
Ảnh hưởng của Voltaire với
tư cách là một triết gia là khá rộng lớn. Tư duy phương Tây phần lớn đã bị ảnh
hưởng bởi những tuyên bố của ông như:
“Tôi không tán thành những
gì bạn nói, nhưng tôi sẽ bảo vệ đến chết quyền được nói của bạn” (I disapprove of what you say, but I will
defend to the death your right to say it).
“Bác sĩ là những người
kê toa những loại thuốc mà họ biết rất ít, để chữa những căn bệnh mà họ biết ít
hơn, ở những người mà họ không biết gì” (Doctors
are men who prescribe medicines of which they know little, to cure diseases of
which they know less, in human beings of whom they know nothing).
“Nếu Chúa không tồn tại,
thì cần phải phát minh ra Ngài” (If God
did not exist, it would be necessary to invent Him).
“Chúa là diễn viên hài
diễn cho khán giả sợ cười” (God is a
comedian playing to an audience too afraid to laugh)…
Những trích dẫn của ông khá quen thuộc và chúng ta vẫn hay sử dụng trong các phát biểu hàng ngày của mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét