Bảo Anh thực hiện
Đây
là cuộc trò chuyện của phóng viên văn nghệ Báo Quảng Nam với tôi. Chỉ là một cuộc
chuyện và những trao đổi hoàn toàn mang tính cá nhân, vài nội dung dưới góc
nhìn của người nói là chủ quan; vậy nên nó có thể gây tranh luận trong bạn đọc.
Do khuôn khổ trang báo (chỉ 1.800 chữ) nên ban biên tập đã thực hiện gọn hơn.
Xin
cảm ơn Báo Quảng Nam cuối tuần và phóng viên văn nghệ Bảo Anh đã đăng bài này
trên trang “Nhân vật cuối tuần” trong số 6380 ra ngày Thứ Sáu, 23/9/2022.
***
Từ một
thầy giáo dạy văn, Lê Đức Thịnh (L.Đ.T) đã rón rén đến với văn chương, rồi trở
thành một người viết chuyên nghiệp và đặc biệt là trở thành dịch giả duy nhất của
Hội VHNT tỉnh Quảng Nam cho đến lúc này.
DUYÊN
CHỮ
*
Nhiều nhà văn cho biết họ trở thành nhà văn là do văn chương chọn họ. Còn anh
thì sao?
- L.Đ.T: Tôi là người học văn, dạy văn và yêu nghề của
mình. Vì thế, việc tôi làm thơ, viết văn cũng là... tự nhiên, như một đam mê tự
thân. Tất nhiên, nếu chỉ với ngần ấy và với cái kiểu viết rồi cất giữ cho riêng
mình, có lẽ mãi mãi tôi sẽ chỉ lặng lẽ trong vai một ông giáo nếu tôi không may
mắn gặp được “duyên chữ”.
* So
với bạn bè văn nghệ cùng trang lứa, có vẻ như anh đến với văn chương hơi muộn,
hay nói cách khác là “duyên chữ” đến với anh hơi muộn...
- L.Đ.T:
Thực ra, tôi đến với văn chương
không quá sớm như các bạn văn khác, nhưng với riêng tôi thì có lẽ cũng không phải
muộn. Trước khi chính thức đưa tác phẩm của mình ra công chúng, tôi đã viết lai
rai dưới dạng nhật ký, cho riêng mình hoặc tặng ai đó... Cho đến năm 2000, tôi có
viết một bài thơ tạm gọi là “nghiêm túc”, có ý thức về kỹ thuật, hình thức câu
chữ, rồi nhờ nhà thơ Huỳnh Minh Tâm đọc. Nhà thơ Huỳnh Minh Tâm... khen; tôi
cũng tự... khen rằng không ngờ mình viết được như thế; và người được tôi tặng
bài thơ cũng khen và... khóc. Từ đó tôi chăm viết hơn, nhất là thơ.
*
Ngoài “cái duyên” với bạn văn ấy, anh có nhận được “duyên chữ” nào từ nghề dạy
học hay không?
- L.Đ.T: Thật sự thì việc viết lách của tôi khởi đi từ/
trong môi trường giáo dục. Thời gian đầu tôi làm thơ và viết nhiều bài nghị luận
mang tính nhà trường. Nó giúp tôi tích lũy kinh nghiệm và có hứng thú để sau
này “biết” viết kiểu nghị luận/ tiểu luận hơn. Cũng từ môi trường học đường,
tôi đã có được một “sự kiện” rất đáng nhớ, có giá trị như một cú hích, đó là
khi cuốn “Tài liệu ôn tập - luyện thi vào lớp 10 môn Ngữ văn” của tôi được NXB
Đà Nẵng ấn hành (2009). Đồng hành với cuốn sách là một “Chứng nhận quyền tác giả”
do Cục bản quyền – Bộ VHTT&DL cấp năm 2010. Cuốn sách đó phát hành rộng rãi
trên địa bàn QN-ĐN với số lượng chục ngàn bản/ tái bản nhiều lần khiến tôi, một
giáo viên bình thường, được biết đến khá nhiều trong giáo giới Quảng Nam và Đà
Nẵng; được lãnh đạo ngành giáo dục biết đến, ghi nhận và còn lọt vào “mắt xanh”
của Hội đồng chuyên môn Sở GD-ĐT tỉnh Quảng Nam.
Từ những mối “duyên chữ” mình may mắn có được
kia, tôi đã gặp nhiều thuận lợi nghề nghiệp, quan hệ, và cảm hứng viết của tôi
cũng nảy nở hơn.
CHỮ
NGHĨA “THƯƠNG NHAU”
Khởi đi từ thơ và nghị luận học đường, nhưng
khi chính thức bước vào sân chơi văn chương rộng lớn bên ngoài, Lê Đức Thịnh đã
bày ra không chỉ có ngần ấy mà còn có cả tản văn, tiểu luận phê bình và dịch
thuật nữa. Anh tự nhận mình là người
khao khát và đam mê văn chương, biết mình có gì và luôn muốn thử sức mình.
* Vừa
sáng tác, vừa dịch, vừa viết phê bình, anh có cảm thấy hững việc này “chỏi”
nhau không?
- L.Đ.T: Tôi là người viết nhiều thể loại, và tôi tự
thấy đó là một ưu thế. Thoạt trông thì thấy có vẻ “chỏi”, nhưng thực ra chúng giúp
ích cho tôi khá nhiều trong quá trình nuôi dưỡng sự viết của mình. Với tôi, chữ
nghĩa luôn biết “thương nhau”, dù ở những thể loại khác nhau nhưng luôn hỗ trợ
cho nhau để cùng thăng hoa, miễn là mình biết say mê, trân trọng và gắn bó với
chữ.
*
Anh thử cho một ví dụ?...
- L.Đ.T: Chẳng hạn nếu tắc tứ thơ, tôi duy trì thú viết
bằng dịch thuật hay viết văn xuôi; hoặc muốn thay đổi cảm hứng tôi cũng làm thế.
Nhờ đó mà mạch viết không bị đứt quãng. Tôi quan niệm: hãy viết để duy trì mạch
chữ, chưa vội cho rằng hay/ dở mà đắc
ý hay nản lòng.
VÀ
CÁNH CỬA MỞ
Ngoài một bản thảo chờ in, đến lúc này Lê Đức
Thịnh đã có 8 đầu sách được xuất bản (không kể tập sách hướng dẫn ôn thi văn lớp
10); trong đó có 5 tác phẩm dịch hoặc biên soạn từ tư liệu nước ngoài. Bởi vậy,
nhiều khi bạn bè gọi Lê Đức Thịnh là dịch giả. Anh thường không tỏ ra phấn
khích trước danh xưng ấy, mà chỉ cảm khái: “Tôi không ngờ là mình lại đam mê dịch
thuật đến vậy”.
* Có
thể anh “không ngờ”, nhưng hẳn là việc dịch thuật đem lại những thú vị nào đó
khiến anh đam mê chứ?
- L.Đ.T:
Hẳn nhiên là có, khá nhiều. Ví
như khi dịch thơ nước ngoài, tôi học được nguồn tứ thơ mới lạ cùng cách diễn đạt
hiện đại hơn, giúp tôi có thể tự “làm mới” thơ mình. Việc đọc, dịch văn học nước
ngoài còn giúp và buộc tôi tìm hiểu xem chúng nói về điều gì, đưa ra thông điệp
thế nào... Nhờ đó, tôi tích lũy và học được nhiều điều. Nghĩa là, thông qua tiếp
cận, dịch văn học nước ngoài, tôi tìm thấy một cánh cửa mở...
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu và dịch,
càng lúc tôi càng có ý thức hơn về tính chuyên nghiệp, và tôi cũng tự hiểu rằng
không thể xem dịch văn chương như thứ “làm màu”. Từ việc dịch sách, tôi cũng có
được những kỷ niệm thú vị. Ví như nhờ cuốn “Yesterday-60 năm The Beatles”, tôi được
cộng đồng những người mê nhạc The Beatles toàn quốc và nhiều dịch giả ở Việt
Nam biết đến; cuốn sách cũng được “rao” trên fanpage The Beatles toàn cầu và Việt
Nam, nhờ đó được bán hết ngay. Hay như cuốn “Aubade”, vừa được giới nghiên cứu
phản hồi tốt vừa thành công trong phát hành; thậm chí chẳng rõ từ nguồn nào mà
một người nào đó đã đưa “Aubade” lên trang thương mại trực tuyến Tiki để rao
bán...
* Nhìn
vào thành quả dịch thuật của anh, nhiều người không khỏi nể phục, và họ tò mò
muốn biết anh đến với dịch thuật từ bao giờ và như thế nào?
- L.Đ.T: Khởi nguồn của việc này là sáu năm tôi dạy học
ở huyện miền núi Nam Giang. Thời gian rỗi khá nhiều và tôi tự tìm thú vui cho
mình, đó là nghe nhạc nước ngoài qua radio, chơi đàn và học tiếng Anh. Quanh
khu vực thị trấn hoang sơ lúc ấy, ai có quyển sách, tài liệu gì liên quan đến
tiếng Anh tôi đều đến mượn hay xin về đọc và học. Sau này chuyển công tác về đồng
bằng, tôi vẫn duy trì những cái thú ấy, nhờ vậy mà cảm hứng và đam mê của tôi không
mất. Với âm nhạc, tôi trở thành nhạc công thực thụ có thể tự tin trình diễn trên
sân khấu. Còn tiếng Anh thì tôi nỗ lực tự học nhiều hơn. Hiện nay, các phương
tiện, thiết bị, công cụ hỗ trợ cho việc học khá phong phú; những người bạn, đồng
nghiệp chuyên môn Anh ngữ cũng là nguồn để tôi học tập.
* Học
tiếng Anh để đọc hiểu một văn bản có thể không quá khó. Nhưng để đọc, thẩm thấu
và chuyển ngữ được một tác phẩm văn chương là rất khó, nhất là với những người
không được đào tạo chuyên ngành?
- L.Đ.T: Đúng là không phải ai giỏi ngoại ngữ đều có
thể trở thành dịch giả, nhất là việc chuyển ngữ tác phẩm văn chương còn phải có
khả năng diễn đạt theo ngôn ngữ văn chương nữa.
Vốn tiếng Anh của tôi cơ bản là do tự học, mà
chủ yếu là luyện kỹ năng đọc hiểu và dịch Anh - Việt. Tôi vừa học vừa dịch và vừa
dịch vừa học. Với tôi, đó là một loại “lộc” nảy nở từ quá trình làm thơ, viết
văn của mình. Chẳng hạn đứng trước một từ nguyên tác, tôi có khả năng lựa chọn
từ tương đương nhiều hơn sao cho hợp âm vận, tiết điệu, thậm chí là hiểu phép
chơi chữ trong nguyên tác để chuyển tải hay có một chú thích về cái hay của chỗ
đó.
* Dịch
thuật, nhất là dịch văn chương, là một công việc không đơn giản. Hẳn là nó lấy
của anh không ít thời gian?
- L.Đ.T: Dịch, ở một góc độ nhất định, cũng là một hoạt
động sáng tạo. Vậy nên tôi dành thời gian nhiều cho việc dịch và không nghĩ nó
lấy mất hay giảm đi cảm hứng, thời gian sáng tác của mình. Thậm chí việc dịch
và sáng tác hỗ trợ cho nhau rất tốt. Chẳng hạn nhờ dịch mà tôi thực hiện được
nhiều tiểu luận văn học nước ngoài, hiểu thêm về các tác giả tác phẩm nổi tiếng
và tích lũy vốn văn chương cho mình.
* Qua
việc dịch văn học nước ngoài, anh có thể đưa ra một cái nhìn so sánh về văn học
Việt Nam với thế giới?
- L.Đ.T: Đây là một câu hỏi quá khó, quá tầm của tôi.
Tuy nhiên, từ công việc của mình, trong một phạm vi hẹp và trong khả năng đọc hiểu
chừng mực của mình, tôi hết sức dè dặt và chủ quan nghĩ rằng, văn học/ thơ Việt
hiện nay dù đã đổi mới rất nhiều nhưng vẫn còn một khoảng cách khá xa với văn học
thế giới.
Văn học Việt Nam hiện nay đã rộng mở hơn về đề
tài, đa dạng về giọng điệu và thi pháp; cởi mở hơn trong cách tiếp cận và lý giải
hiện thực… Điều này đã đem đến một sắc thái mới cho nền văn học đương đại nhờ sự
hòa nhập với các nền văn hóa, văn học thế giới. Tuy nhiên phải thừa nhận là
VHVN vẫn còn một khoảng cách khá xa với văn học thế giới – nhất là trong lĩnh vực
thơ ca. Cụ thể như sau:
Thơ Việt vẫn khu trú trong văn hóa Phương
Đông với các đề tài quen thuộc (thơ gia đình, quê hương, hoài cổ, tức cảnh…); về
thể tài (các kiểu thơ, giọng thơ cũ vẫn âm vọng trong câu chữ, kết cấu, thể loại…).
Về mặt giá trị, tất nhiên thơ văn luôn có trị
thẩm mỹ - nhân văn nhưng thơ Việt chưa (hoặc rất ít) vươn tới những giá trị ở tầm
nhân loại. Các nhà thơ nổi tiếng/ bài thơ hay trên thế giới đều có điều này dù
họ viết về bất cứ đề tài gì. Nhất là các tác giả đạt được các thành tựu lớn.
Thơ Việt nặng về tìm tòi chữ nghĩa, tứ lạ… vậy
nên khi đọc thơ chúng ta thường bị chi phối trong đánh giá bởi câu chữ và chú
trọng khen hay/ mới/ chưa hay ở chỗ/ chữ này nọ (điều ấy cũng là một phần không
thể thiếu khi viết thơ) nhưng chúng ta ít chú ý đến sự giản dị. Tôi đọc nhiều
thơ nước ngoài qua bản gốc lẫn bản dịch và nhận ra sự giản dị làm nên giá trị
bài thơ. Ngoại trừ thơ trừu tượng (abstract), thơ lập thể (cubist), thơ hậu hiện
đại (postmodernism) là những loại thơ đặc thù thuộc trào lưu, xu hướng góp phần
thay đổi diện mạo văn học thì những tác giả trên thế giới được ghi nhận thành tựu
thơ ca phổ quát đều có 1 trong các đặc điểm: đổi mới, giản dị và tầm nhân loại
trong tác phẩm. Hai tác giả lớn mà tôi đọc và dịch nhiều nhất, đoạt Nobel Văn
chương gần đây là Bob Dylan và Louise Gluck là một ví dụ. Bob Dylan đoạt giải
Nobel Văn học 2016 vì được ghi nhận “đã tạo ra những cách diễn đạt thơ mới
trong truyền thống ca khúc vĩ đại của Mỹ” (for having created new poetic
expressions within the great American song tradition). Louise Glück đoạt Nobel
Văn học 2020 vì “một phong cách thi ca đặc biệt, với vẻ đẹp khiêm nhường, đã
làm cho sự tồn tại của mỗi cá nhân mang một giá trị phổ quát” (for her
unmistakable poetic voice that with austere beauty makes individual existence
universal). Abdulrazak Gurnah đoạt Nobel Văn học 2021 bởi tác phẩm “thể hiện sự
thâm nhập quyết liệt và lòng trắc ẩn của ông đối với ảnh hưởng của chủ nghĩa thực
dân và số phận của những người tị nạn trong hố sâu ngăn cách giữa các nền văn
hóa và lục địa. (for his uncompromising and compassionate penetration of the
effects of colonialism and the fate of the refugee in the gulf between cultures
and continents)…
Tính triết học, thần học trong thơ Việt nhạt
nhòa hơn so với thơ nước ngoài. Điều này do môi trường văn hóa, tư tưởng của xã
hội chi phối nên việc tiếp cận với thơ ca thế giới là một chặng đường dài đòi hỏi
những nỗ lực, học tập, tiếp cận của các tác giả.
Ngoài ra phải kể đến một điều quan trọng là
muốn thơ Việt đi ra với thế giới thì việc quan trọng là chúng ta phải sáng tác
bằng tiếng Anh hoặc dịch thơ Việt sang tiếng Anh và phát hành bên ngoài lãnh thổ
Việt Nam. Chúng ta chưa làm được điều đó một cách bài bản hoặc có làm nhưng
chưa để lại dấu ấn đặc biệt nào. Tôi nghĩ người giỏi ở ta không thiếu nhưng có
lẽ họ chưa khao khát làm điều đó. Vậy nên thơ Việt như cách nói vui của nhiều
người là “sân nhà”.
Hiện chúng ta đang khao khát một Nobel Văn học
hoặc một giải danh giá tầm khu vực, châu lục nhưng nếu nhìn lại các yêu cầu
trên, tôi và các bạn đều nhận thấy điều ấy còn khá xa.
* Vậy
anh có sẵn lòng góp phần thu hẹp khoảng cách ấy không, chẳng hạn bằng cách tham
gia dịch văn học Việt Nam ra tiếng nước ngoài?
- L.Đ.T: Tôi nghĩ mình đang làm khá tốt việc dịch tác
phẩm văn chương ở chiều Anh - Việt, đúng với năng lực của tôi. Dịch Việt - Anh
là một chuyện khác, đòi hỏi những nỗ lực mới không chỉ là chuyện học tập mà còn
liên quan đến các hiểu biết khác nữa. Tôi đang học tập để làm điều này và hy vọng
sẽ đạt được từng bước.
* Anh
có thể đưa ra một vài cái nhìn về văn thơ Quảng Nam?
- L.Đ.T: Đây cũng là một câu hỏi khó, tôi chưa đủ tầm
trả lời cho chính xác. Tuy nhiên tôi vẫn có thể quan sát và có những cảm nhận chủ
quan – để học tập, tự biết vị trí của mình so với anh em văn nghệ. Vậy nên ý kiến của tôi có thể gây tranh cãi…
Văn thơ Quảng Nam đương đại là một bộ phận của
văn thơ Việt nên những gì thơ Việt có thì thơ/ tác giả Quảng Nam cũng có tương
tự. Tuy nhiên, nhìn một cách mạnh dạn thì thơ văn Quảng Nam có nhiều cây bút có
bề dày về viết/ đăng/ giải thưởng/ có tiếng vang trên các diễn đàn văn nghệ mà
tôi ngưỡng mộ, tôi hay đọc tác phẩm của họ và học tập như: Đỗ Thượng Thế, Huỳnh
Minh Tâm, Nguyễn Giúp, Lê Trâm, Phạm Tấn Dũng, Nguyễn Chiến… gần đây có cây bút
truyện ngắn mới nổi là Hồ Loan cũng làm nên một dấu ấn cho văn học QN. Và tôi
nghĩ cái list này có thể kéo dài.
Trong sinh hoạt văn nghệ, chúng ta vẫn hay
nói với nhau về câu chuyện nhiều tập mang tên đổi mới. Chính nó là động lực để
anh em điều chỉnh, cân nhắc cho ngòi bút sáng tạo của mình.
Tất nhiên chuyện thơ ca, văn chương là hoàn
toàn tùy thuộc vào sở tri, năng lực cá nhân nên không thể đòi hỏi mặt bằng
chung. Chúng ta chỉ đòi hỏi nỗ lực trên hành trình viết – sáng tạo và đổi mới.
Tôi cũng hiểu rằng tác giả/ tác phẩm đang thể
hiện mình ở một trong 3 dạng: dạng phục vụ (viết nhẹ nhàng dễ hiểu để chia sẻ);
dạng chinh phục (tìm tòi đổi mới, nhiều tầng ẩn dụ và có thể hơi khó đọc) và dạng
thách thức (cầu kỳ chữ nghĩa, ý tưởng và diễn đạt – là kiểu thơ đòi hỏi năng lực
giải mã, cảm thụ nhất định mà chúng ta quen gọi là thơ khó). Nếu tác giả ý thức
được tác phẩm của mình như thế nào tức là chúng ta đang đổi mới cùng với những
nỗ lực sáng tạo.
* Xin
cho biết vài dự định sắp đến?
- L.Đ.T: Ngoài những dự định đã nói trên, hiện tôi
đang chăm sóc 2 bản thảo: Một cuốn tạp văn đã xong bản thảo và đăng ký xuất bản
tại Nxb ĐN nhưng chưa in có tựa “Kiếp nào xưa xa”, dự kiến sẽ ra mắt vào cuối
năm 2022. Một tập tiểu luận phê bình về văn học Quảng Nam, kiểu chân dung văn
nghệ các tác giả và tác phẩm Quảng Nam; dự kiến sẽ ra mắt vào quý 4 năm 2023.
*
Xin cám ơn anh. Chúc anh có thêm nhiều thành công mới trong sự nghiệp văn
chương của mình.
- L.Đ.T: Xin cảm ơn bạn đã dành thời gian trao đổi. Tôi rất vui nếu cuộc chuyện này trở thành một bài phỏng vấn trên báo.
Ghi
chú của phóng viên: Nhà thơ, dịch giả Lê Đức Thịnh, bút danh Mộc Nhân, sinh năm
1963 tại Đại Lộc, Quảng Nam, hội viên Hội VHNT Quảng Nam từ năm 2015. Anh đã xuất
bản 8 tập sách, gồm 2 tập thơ (Những vũ điệu và khúc ca - NXB Hội Nhà văn 2015;
Ngẫu khúc chữ - NXB Đà Nẵng 2021); 1 tập tản văn (Chúng ta trong cõi lao đao -
NXB Hội Nhà văn 2020) và 5 tác phẩm dịch thuật, biên soạn từ nguồn tư liệu nước
ngoài (Bụi trong gió - NXB Đà Nẵng 2016; Bob Dylan-những hòn đá lăn - NXB Hội
Nhà văn 2017; Bob Dylan-mai sau biết đến bao giờ - NXB Hội Nhà văn 2018; Yesterday-60
năm The Beatles - NXB Hội Nhà văn 2020 Aubade - NXB Hội Nhà văn 2021).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét