Trích chương XVIII – Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh
Tôi đã viết hai bài thuộc dạng chân dung văn học về Nguyễn Đình Thi: bài Nguyễn Đình Thi như tôi biết và bài Từ lần gặp ấy, tôi đã hiểu thêm Nguyễn Đình Thi. Nay tôi kể thêm mấy mẩu chuyện khác về anh.
Nguyễn Đình Thi từ thời thơ ấu đến bài thơ Đất nước. Người ta thường
nói Nguyễn Đình Thi sinh ở Luang Prabang (Lào). Nhưng chính Nguyễn Đình Thi lại
nói với tôi, anh sinh ở Phongxalỳ. Anh nói rất cụ thể, hồi ở với tôi tại Đà
Nẵng (tháng 7.2000). Bố anh là một nhân viên bưu điện sơ cấp bị điều sang Lào,
phụ trách một trạm bưu điện ở Phong xa lỳ. Ở đây ông lấy con gái một Việt kiều
vốn là một đầu bếp, người Đông Thái, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Ông này trốn sang Lào vì
có dính vào vụ Hà Thành đầu độc. Dân ở đây rất lạc hậu, một dân tộc thiểu số
của Lào gọi là Phù Nọi. Dân Phù Nọi ăn cả đất. Thi từng bắt chước họ ăn đất.
Phong xa lỳ là một khu vực quân sự (territoire militaire). Toàn lính là
lính, lính Tây, lính ta, khố xanh, khố đỏ, và tù chính trị. Xa nước, nên từ nhỏ
Nguyễn Đình Thi hay nghĩ về đất nước, hay tưởng tượng về đất nước. Nhưng đất
nước trong tâm trí cậu bé là thế: một đám tù chân xiềng tay xích, lính giải đi
làm cỏ vê hàng ngày. Thi lên 6 tuổi, bố thấy con sắp thành dân Phù Nọi đến nơi,
muốn đưa anh về nước. Rất may, năm 1930, bố anh được điều về Việt Nam. Mẹ anh
thường cưỡi ngựa. Bà cưỡi ngựa, đi hàng trăm cây số. Bóng bà đi ngựa leo dốc
còn in mãi trong trí nhớ anh sau này – anh nói đó là một hình ảnh rất thơ. Gia
đình anh về nước, đi từ Phong xa lỳ, qua Luang Prabang, Tà Khẹt, về Hà Nội. Lần
đầu nhìn cái ôtô, anh gọi là cái nhà biết đi. Lúc đầu gia đình ở Hà Nội, phố
Bạch Mai. Sau đi Hải Phòng, rồi lại trở về Hà Nội. Anh tự thấy là một chú nhãi
Hà Nội, thuộc đủ ngõ ngách, phố xá của Hà Nội. Gia đình Nguyễn Đình Thi không
phải trí thức. Không biết chữ Hán. Coi như ngoại đạo đối với văn học. Trong đám
sách vở nghèo nàn của bố, anh chỉ được đọc và nhớ có một câu thơ của Bà huyện
Thanh Quan: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”. Sau này ngẫm lại cuộc đời mình,
anh thấy đời anh cũng chỉ là “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”. Ngoài ra có được
đọc bản dịch Những người khốn khổ của
V. Hugo. Cảm động nhất là đoạn Jean Valjean tìm Cosette. Cosette trong đêm tối
mù mịt, xách xô nước, tự nhiên thấy nhẹ bỗng đi.
Té ra Jean Valjean xách hộ. Anh nghĩ, suốt đời chỉ mong xách hộ xô nước
cho một đứa bé nhà nghèo.
Anh biết rất ít văn học Việt Nam. Mãi sau này mới đọc Đoạn tuyệt, Nửa chừng xuân. Đến ba mươi
tuổi mới đọc Tam quốc, Thuỷ hử.
Không biết chữ Hán, không biết Thơ mới, không biết Tự lực văn đoàn. Không cảm được cái hay của ngôn từ chữ Hán. Không
thích “Viễn phố” bằng “bến xa”, nghe gợi nhiều hơn, không thích “lâm tuyền”,
thích nói “suối xa”.
Cho nên làm thơ ngoài luồng Thơ mới, ngoài luồng Tự lực văn đoàn, cảm
thấy thế nào cứ làm như thế, điếc không sợ súng. (Nghe tôi nói lại lời Nguyễn
Đình Thi như thế, Nguyên Ngọc không tin, cho là Thi nói dối. Nguyên Ngọc dứt
khoát không tin ở sự thật thà của Nguyễn Đình Thi).
Nguyễn Đình Thi rất thích cảnh rừng núi – anh nói thế – vì anh đã ở
Phong xa lỳ, nên về sau lên Việt Bắc thấy quen thuộc như đã biết từ bao giờ
rồi. Mẹ Nguyễn Đình Thi là một người đàn bà rất đảm. Khi gia đình ở Hải Phòng,
bố anh lại bị điều vào Sài Gòn (Chợ Lớn). Bà không theo vào. Bà mở một xưởng
làm kẹo bột. Về Hà Nội cũng làm kẹo. Đi kháng chiến, bà trồng hẳn một quả đồi
sắn. Nguyễn Đình Thi nói “Bà ghê lắm, giỏi lắm!” (Thế mà hình như bà mù chữ ).
Ở Hải Phòng, anh chứng kiến Nhật đổ bộ. Anh nói: “Nhục lắm! Nó đi đâu
cũng ra hiệu hỏi nơi nào có đĩ”. Anh lớn lên vào lúc cuộc đại chiến thứ hai.
Nhật vào. Phong trào Việt Minh. Thời thế đặt ra những câu hỏi lớn. Nguyên Hồng
gọi là “thời kỳ đen tối” (1940- 1945). Theo Nguyễn Đình Thi, đây là thời kỳ
trắng đen, thật giả lẫn lộn. Vì thế dễ lầm lẫn (Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân
đã lầm lẫn), phải suy nghĩ tợn. Suy nghĩ về đời, về đất nước, về sự sống, về
chân lý, về đường đi… Cho nên Nguyễn Đình Thi thích đọc và viết triết học. Anh
viết Kant năm 1942, lúc 18 tuổi. Tiếp đó là nhạc. Mãi sau mới làm thơ và viết
văn.
Như thế là Nguyễn Đình Thi đi từ triết đến nhạc rồi mới đến thơ văn.
Thơ văn có cấu trúc nhạc. Ông bố Nguyễn Đình Thi ngày xưa có chơi đàn nguyệt,
đàn bầu. Còn anh thì tự học nhạc chỉ bằng một cái đàn mandoline và một cuốn
nhạc phổ thông. Có một buổi học nhạc một mục sư. Nói chung là tự học.
Từng chứng kiến cảnh mất nước từ ở Lào, rồi cảnh Nhật vào Hải Phòng,
đến hiệp định 6/3 lại chứng kiến Pháp kéo vào từ Hải Phòng, theo đường số 5
(Trường Chinh giao nhiệm vụ cho Nguyễn Đình Thi đi đả thông đồng bào hai bên
đường số 5: không đón tiếp, mặc nó, nhưng không gây sự). Vì thế, được làm chủ
đất nước, sướng lắm – “Trời xanh đây là của chúng ta! Núi rừng đây là của chúng
ta!”. Hồi học trường Bưởi, Nguyễn Đình Thi thích nằm ngửa ở sân trường nhìn
trời xanh không biết chán. Sau này nhớ lại: “Trời xanh đây là của chúng ta!”.
Kháng chiến, Nguyễn Đình Thi có chuyện buồn: hai người thân mất (vợ và
cô em vợ – định gả cho Thi), cộng thêm nỗi đau đất nước bị dày xéo: “Ôi những
cánh đồng quê chảy máu Giây thép gai đâm nát trời chiều”.
Anh nói, tám năm kháng chiến mới viết được hai câu ấy. Khắp nơi giặc
chăng giây thép gai: Hành quân ở Bắc Giang, nhìn lên đồi cao thấy giây thép gai
in trên nền trời đỏ như máu.
Hành quân liên miên, đi ngày, đi đêm. Toàn đi bộ, một ngày có khi 50
cây số, từng qua vùng thượng Lào: “Ngày nắng cháy, đêm mưa dội”, cứ thế đi dưới
trời mưa.
Vì thường hành quân đêm nên có hai hình ảnh rất ấn tượng đối với anh:
lửa và sao. Lửa đốt sưởi lúc nghỉ chân. Không phải đèn mà lửa:
Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây
Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
Sưởi ấm lòng chiến sĩ dưới ngàn cây.
(Nhớ)
Đến chiến dịch Điện Biên Phủ, lính đi trong chiến hào ngập nước có khi
tới ngực. Mặt mũi đen nhẻm vì chỉ có bùn và khói súng, cười răng trắng xoá, từ
bùn vụt lên: “Rũ bùn đứng dậy sáng loà”. Nguyễn Đình Thi nói: “Nguyễn Tuân rất
thích hình ảnh này. Còn chị Mộng Tuyết gặp anh lần đầu, kêu lên: “A, anh rũ bùn
đứng dậy sáng loà đấy à!”
Bài thơ Đất nước làm ở Việt Bắc từ 1948. Ghép hai bài thơ
kháng chiến với nhau. Sau bẵng đi đến 1955 mới làm tiếp ở Thái Nguyên – xã Phú
Minh, bên sông Cầu (làm tiếp bài thơ Đất nước và bắt đầu viết tiểu
thuyết Vỡ bờ).
Anh nói, bài Đất nước kết
cấu theo âm nhạc. Chủ âm a từ mở bài, thân bài đến kết bài: Tôi nhớ những ngày thu đã xa…/ (…) Xiềng
xích chúng bay không khoá được/ Trời đầy chim và đất đầy hoa/ (…) Nước Việt Nam
từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng loà.
1. Nguyễn Đình Thi tập viết tiểu thuyết:
Năm 1968 (20.11.1968), Nguyễn Đình Thi có một cuộc nói chuyện với cán
bộ và sinh viên khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội. Lúc ấy tôi còn dạy ở Đại học
Sư phạm Vinh. Nhân ra Hà Nội, tôi đến nghe ghé.
Nguyễn Đình Thi nói về những ngày đầu anh tập viết truyện, viết tiểu
thuyết. Anh nói, con đường vào nghề văn của anh là đi từ ngọn xuống gốc – con
đường không thuận. Bắt đầu viết từ năm 1942. Viết sách khảo cứu trước. Vào Việt
Minh, bắt đầu biết chủ nghĩa Mác, học được gì viết nấy: viết tiểu luận, viết về
ca dao…, vẫn làm lý luận trước. Khác với con đường của Nguyên Hồng, Tô Hoài, từ
vốn sống thực tế mà sáng tác. Thực ra, anh nói, nếu không có cách mạng thì cũng
có thể đi từ gốc đến ngọn, viết theo vốn sống tự nhiên của mình. Song vừa vào
nghề đã gặp cách mạng, cách mạng yêu cầu phải có vốn sống về quần chúng cơ bản,
về nông thôn. Do xuất thân gia đình viên chức tiểu tư sản, toàn ở thành thị,
lúc bé lại ở Lào, về nước chỉ đi học, vốn sống về quần chúng công nông không có
gì. Thành ra phải có cả một quá trình đi theo cách mạng, về nông thôn, vào bộ
đội, vốn sống phải thu nhặt dần dần, từ 1942 đến 1955, chín năm phấn đấu mới
viết được cuốn tiểu thuyết đầu tay: cuốn Xung kích.
Những năm kháng chiến, tại chiến khu Việt Bắc, Nguyễn Đình Thi ở chung
với mấy ông lãnh đạo văn nghệ: Tố Hữu, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao. Anh thử viết
một truyện ngắn, viết xong mời mấy vị đàn anh đến đọc cho nghe. Họ ngồi quanh
bếp lửa nhà sàn. Đọc xong thấy các vị chẳng nói gì, chỉ liếc nhau, tủm tỉm.
Biết là hỏng rồi. Các vị ngại chê nên không nói gì. Lại thử lần nữa. Vẫn thất
bại. Buồn quá. Làm mấy bài thơ thì bị phê bình. Viết văn cũng bị chê. Chủ yếu
do viết không hay, không sâu – anh tự thấy như thế. Thi biết nhược điểm của
mình. Tuy cũng tiếp xúc với thực tế, nhưng không sao nhớ được những chi tiết cụ
thể của đời sống (nói như Tô Hoài, con mắt anh không sao chọc thủng được tờ
giấy. Nghĩa là cứ bị sách vở che khuất). Mà văn xuôi thì rất cần chi tiết. Anh
nghĩ cách khắc phục. Anh cho rằng cơ thể con người ta là một thể thống nhất.
Nếu tay ghi lại thì óc cũng lưu giữ được. Lần này anh đi theo chiến dịch Trung
du (cuối 1950, đầu 1951). Anh hạ quyết tâm phải thành công. Nếu lại thất bại
thì bỏ nghề, xin công tác khác. Anh đi với tiểu đoàn 29 (tiểu đoàn Lũng Vài),
tiểu đoàn này đánh công kiên, tức đánh đồn, rất giỏi – đánh công kiên là khó
nhất. Mở chiến dịch Trung du là lần đầu ta đánh công kiên. Anh đem theo rất
nhiều sổ tay để ghi chép. Vừa đi vừa ghi chép, ghi la liệt như máy.Anh nói, nếu
có ai nhìn anh vừa hành quân vừa ghi ghi chép chép thì chắc buồn cười lắm. Cái
gì cũng ghi: lá nguỵ trang đầy đường. Có ba con bò gặm cỏ ở bờ đê. Một cái vạc
nước sôi sùng sục trên ba tảng đá… ghi tuốt. Lúc bao vây đồn giặc, anh cũng đào
một hố công sự bên cạnh anh chỉ huy (Thái Dũng, Tây gọi là Commandant manchot –
quan tư cụt tay). Pháo chưa nổ. Im lặng hầu như tuyệt đối. Anh lắng nghe và
ghi: tiếng gà gáy ở một xóm xa, tiếng gió thổi, tiếng mõ, tiếng chó sủa ở một
làng tề… Khi bộ đội bắt đầu rót pháo, anh nhổm lên quan sát đồn giặc bốc lửa ra
sao rồi thụp xuống ghi. Xung kích vào đồn, anh chạy theo và ghi những gì nhìn
thấy. Ghi mò nguệch ngoạc – chưa nhập tâm thì cứ phải ghi hết – anh nghĩ thế.
Tất nhiên vẫn chưa đủ. Trận đánh kết thúc, anh theo bộ đội ra ngoài đồng xem họ
tập trận để ghi các động tác lăn lê bò toài, cách ném lựu đạn thế nào…
Chiến dịch Trung du kết thúc, trên giao cho anh viết một bài tường
thuật. Nhân tìm hiểu để viết bài này, anh có được cái nhìn bao quát cả trận
đánh và cả cái nền rộng rãi đằng sau trận đánh.
Khi thấy đã tạm đủ rồi, anh trở về, nói dối các vị đàn anh là đi công
tác (người ta không tin mình viết được, nên nói đi sáng tác thì ngượng, ngồi ở
nhà sáng tác trước mặt mọi người lại càng ngượng), kì thực anh tìm đến ở nhờ
nhà một đồng bào ở chân núi Tam Đảo để viết. ấy là cuốn tiểu thuyết đầu tiên
của anh: cuốn Xung kích.
Anh dự định viết một truyện vừa. Sắp xếp một loạt bức tranh những đám
đông. Muốn biểu hiện chiến tranh nhân dân, phải tả những đám đông. Nhân vật
chính nói chung đều phỏng theo người thực. Thí dụ, chính trị viên cụt tay là
Thái Dũng, vốn là một ông giáo, chỉ huy tiểu đoàn 29. Promotype của Kha là một
anh học sinh ở Hải Phòng, trẻ, có tài, chưa vợ con, vẫn có tính học sinh. Nhân
vật Sản thì có nhiều nguyên mẫu góp vào: Thái Dũng, một anh công nhân ở Hải
Phòng và một anh khác vốn là học sinh trường cơ khí (école pratique) phụ trách
chính trị viên tiểu đoàn 29. Có một nhân vật phụ mà thành công hơn cả nhân vật
chính: chú bé Luỹ. Một em bé đi lính tự nhiên đem lại một cái gì rất cảm động
cho bộ đội ta.
Mở đầu chương một, anh nói, mình tìm cách sút gôn mà loay hoay mãi
không được. Sau mới nghĩ ra: Đưa luôn vào cảnh hành quân của bộ đội, dân công.
Thế là trót lọt – Viết một mạch ba tuần lễ, xong.
Viết xong, rất hồi hộp. Đọc thử cho bộ đội nghe. Họ thích nhất cảnh bộ
đội cởi truồng lội suối, cảnh dân công, bộ đội đối đáp nhau. Thích hơn các đoạn
tả đánh nhau. Vậy là tả đánh nhau không đạt lắm. Tả sinh hoạt khá hơn vì gần
với tâm trạng mình hơn. Tuy vậy vẫn không tự đánh giá được, thấy vẫn cần phải
đưa cho ai đó đọc. lần này không dám đưa cho mấy vị đàn anh trong nghề nữa. Các
vị khó tính quá. Anh chủ trương trước hết đưa cho những người mà anh gọi là
“nhà văn một nửa”. Người đầu tiên là Xuân Thuỷ. Xuân Thuỷ cho là được, chỉ chê
một số chỗ chưa đúng ngôn ngữ quần chúng. Thí dụ, đoạn tả bộ đội dân công đi
lại qua cầu chen chúc nhau, có một cô dân công mắng một anh bộ đội sờ soạng
mình: “Cái anh này sao lại cứ sờ sờ vào người ta như thế!”. Xuân Thuỷ nói, đàn
bà người ta không nói như vậy. Và ông chữa cho là: “Đồ phải gió, chân với tay”.
Mắng mà vẫn nội bộ. Câu trước là do Nguyễn Đình Thi bịa ra, thô quá! Anh nói,
vậy là văn chương mà thô hơn quần chúng. Tiếp theo anh đưa cho cụ Lành. Ông
Lành khuyên cho mấy đoạn: đoạn tả hành quân và chi tiết anh đại đội trưởng ngồi
tính giờ, ghi vào nắm tay. Tố Hữu còn thêm cho một chi tiết: Sản nói với Kha
trước khi Kha tắt thở: “Tao hôn mày” để biểu hiện tình cảm một cách văn minh.
Cuối cùng anh đưa cho Trường Chinh. Trường Chinh khen có tính đảng: tả
đúng chiến tranh nhân dân, có sự phối hợp giữa chi bộ quân đội và cấp uỷ đảng
địa phương, như thế là ở đâu cũng có đảng lãnh đạo. Nguyễn Đình Thi nói, thực
ra lúc viết, không có ý thức như vậy. Đây là ý thức của một ông lãnh đạo đảng.
Ngoài ra cũng có người phê tả thương vong hơi nhiều, e không có lợi, sợ ảnh
hưởng đến tư tưởng quân đội (ý kiến này là của một cán bộ chính trị trong quân
đội).
Trường Chinh giục in luôn để phục vụ kịp thời.
Thành công này đã làm cho Nguyễn Đình Thi tin tưởng. Anh viết
tiếp Vào lửa, Mặt trận trên cao, Vỡ
bờ. Thực ra tiểu thuyết không phải chỗ mạnh của Nguyễn Đình Thi: Tô Hoài, Nguyễn
Khải trước sau vẫn cho Nguyễn Đình Thi không viết được tiểu thuyết.
Năm 1970 tôi có được nghe Nguyễn Đình Thi nói về tiểu thuyết Vỡ bờ (ở
trụ sở báo Văn nghệ). Anh nói Vỡ bờ tập I,
anh còn viết dưới cái cánh che chở của ông Tolstoi già. Tập II đã thoát được
cái cánh ấy. Thực ra Vỡ bò tập II rất
dở. Tập I còn đỡ hơn. Mới biết dù thông minh đến đâu, con người ta cũng khó
đánh giá đúng văn của mình – “văn mình – vợ người” – văn mình bao giờ chả hay.
2. Vịt giời và vịt nhà: (lược bỏ)
3. Chuyện con cua và con ếch.
Năm 1983, Hà Xuân Trường thay Trần Độ làm trưởng ban văn hoá văn nghệ
Trung ương. Nguyễn Văn Hạnh tiếp tục ở lại một thời gian làm phó cho Hà Xuân
Trường. Các vị tổ chức một cuộc hội thảo trong ba ngày về văn học nghệ thuật.
Cuộc hội thảo tập hợp rất đông văn nghệ sĩ thuộc các ngành nghệ thuật khác
nhau. Nguyễn Đình Thi có đến dự. Hôm ấy tôi được chứng kiến Nguyễn Đình Thi sợ
Tố Hữu như thế nào. Ba ngày liền các đại biểu tự do đăng kí phát biểu. Hôm đầu,
tôi hỏi Nguyễn Đình Thi có phát biểu không. Anh nói không. Nhưng đến buổi cuối
cùng, anh lại nói.
Giới văn nghệ nói chung rất phục Nguyễn Đình Thi (trừ bọn viết văn).
Anh lại có thuật nói hấp dẫn. Anh bước lên, đứng trước cái bàn có phủ khăn.
Đứng im, không nói gì. Mọi người im phăng phắc chờ đợi. Tưởng như con muỗi vo
ve cũng nghe thấy. Bỗng anh bước ra khỏi cái bàn, vung tay hỏi hội nghị: “Chúng
ta đang làm cái gì thế này?” Mọi người ngơ ngác tự hỏi: họp ba ngày, không biết
mình làm cái gì nhỉ ? Càng cảm phục và chờ đợi. Thi vung tay nói lớn: “Chúng ta
đang làm một nền văn nghệ lớn. Và chúng ta cũng lớn!”
Đúng lúc ấy Tố Hữu đi vào. Hà Xuân Trường theo sau. Tố Hữu ăn mặc xuềnh
xoàng, áo sơ mi bỏ ra ngoài quần. Người nhỏ bé. Nguyễn Đình Thi đang hùng hồn
bỗng cụt hứng, xìu hẳn lại, không nói được nữa.
Tố Hữu ngồi ngay ghế đầu, vẫy tay nói với Thi: “Anh cứ nói tiếp đi!”.
Nhưng Thi chỉ nói lí nhí mấy câu gì đó không nghe rõ, rồi bỏ đi xuống. Tôi hình
dung con cua đang giơ hai càng một cách hiên ngang như muốn thách thức với cả
trời đất. Con ếch tới, vỗ nhẹ vào mai một cái, con cua vội co dúm người lại.
Nguyễn Đình Thi là con cua, Tố Hữu là con ếch.
Thảm hơn nữa là sau đó, khi Tố Hữu phát biểu, Thi thỉnh thoảng lại đế
vào một câu để tỏ ra rất tán thưởng ý kiến của Tố Hữu. Một thái độ nịnh hót rất
lộ liễu. Lưu Trọng Lư cũng thế. Rất tội!
Nguyễn Đình Thi là một trí thức, đọc rộng, biết nhiều – lại có nhiều
trải nghiệm trong thực tế và có quan hệ với các cấp trung ương, những ông lãnh
đạo đảng và quản lý nhà nước. Vì thế anh có nhiều ý kiến ngược dòng chính trị,
có tầm khái quát khá táo bạo. Nhưng cứ phải giấu đi, cứ phải ngậm miệng. Trong
vở kịch Nguyễn Trãi ở Đông Quan,
anh đưa ra một nhân vật mắc bệnh câm. Cô Câm. Chắc hẳn anh muốn nói cái khổ của
anh trí thức, của bản thân mình: biết đủ thứ, muốn nói mà không nói được.
Nhưng tâm lý con người ta là thế, khi trong bụng có lắm ý kiến lấy làm
tâm đắc, thì thế nào cũng có lúc phát ra chỗ này chỗ khác.
Tôi đã được nghe khá nhiều ý kiến như thế của Nguyễn Đình Thi. Chẳng
hạn những ý kiến như thế này: “Tổng bí thứ Đảng là ông vua cộng với ông Thánh,
là Hoàng đế cộng với giáo hoàng. Phong kiến nó tách ra làm hai. Cộng sản chỉ có
một, nên đẻ ra Staline và Mao Trạch Đông. Vua thì phải giết kẻ kế cận. Mao,
Staline đều chặt đầu kẻ ngang mình. Hồ Chí Minh cũng được thờ như ông thánh,
nhưng không tự nhận là thánh, không giết kế cận. Đấy là chỗ may cho dân tộc
mình”. “Ta hiện nay có tình trạng người có quyền không biết chuyên môn. Kẻ có
năng lực thì không có quyền. Kẻ biết không được nói. Kẻ nói thì không biết”.
“Trong chiến tranh, văn học cứ phải đánh trống thổi kèn. Toe, toe, toe, tiến
lên! Phải lên giây cót. Không lên giây cót là mất nước ngay. Văn học vì thế là
văn học tuyên truyền, đánh trống thổi kèn. Phê bình thì đánh giá lẫn lộn, cái
hay bảo dở, cái dở bảo hay, làm sai lạc hết tiêu chuẩn”.
“Văn nghệ sĩ như đám cung nữ, múa hát cho vua xem. Còn phê bình là lũ
hoạn quan, lũ thái giám, chuyên bảo vệ các cung nữ”. “Ta không được nói cái
nhỏ, không được nói bóng tối, không được nói đời tư. Con người đối diện với
mình là rất văn học. Nhưng ít được nói đến. Vì thế văn học trào phúng không
phát triển được”. “Đường lối văn nghệ có thể sai, nhưng sáng tác vẫn có thể có
sáng tạo do gắn với đời sống. Còn lý luận phê bình thì phụ thuộc hơn vào đường
lối.
Đường lối sai ảnh hưởng đến lý luận phê bình.
Người sáng tác có tài vẫn tìm cách khơi được dòng để sáng tạo. Có đièu
kiện thì nói thẳng, không có điều kiện thì nói quanh co, song vẫn nói được, nếu
có tài và gắn với đời sống”.
“Phê bình kém vì chỉ có một cái đầu được nghĩ thôi. Không ai được nghĩ.
Tự do không có. Không phải phê bình kém mà vì phê bình không được nghĩ và nói
theo cái đầu của mình. Hiện nay chỉ có phê bình đề tài, không phê bình tác
phẩm”.
“Văn học cho đến nay, về phương diện phản ánh chiến tranh vẫn còn ở dạng
hồi ký. B. Polévoi, Simonov cũng thế thôi. Viết về chiến tranh phải có gan viết
về cái chết. Người anh yêu nhất chết. Và cái chết phải vượt ra ngoài vấn đề
chiến tranh. Không dám nói cái tình trong chiến tranh thì kể bao nhiêu sự kiện
cũng không hay ho gì. Phải lùi xa mà phản ánh hiện thực, và phải có tầm nhân
loại. Mà nhà văn ta sợ không dám khái quát ở tầm cao, tầm trung ương”. “Có hai
cái gây ra drame và tạo cho nhân vật một destinée: tình yêu và lí tưởng. Tiểu
thuyết ta không dám đặt ra vấn đề gì cả. Vì hai vấn đề trên phải tránh. Thành
ra nói như sách, nói theo đáp án định sẵn”.
Những ý kiến như thế cứ “thòi” ra chỗ này chỗ khác, hoặc trong những
cuộc nói chuyện ở đâu đó, hoặc dùng lối biểu tượng hai mặt để “xì” ra một cách
bóng gió trong tác phẩm của mình (chủ yếu là kịch).
Thành ra Tố Hữu rất ghét Thi. Vì Tố Hữu là tay thông minh, thừa biết
Thi thực bụng nghĩ gì. Vả lại những ý kiến kể trên của Thi, thế nào chẳng có
thằng tâu với Tố Hữu. Ghét nhưng vẫn dùng. Vì Thi biết sợ. Lãnh đạo ngại nhất
là thằng không biết sợ. Sai không sao, ngại nhất là thằng bướng. Thằng bướng
thì phải diệt ngay (như Nguyên Ngọc chẳng hạn).
Nguyễn Đình Thi sợ Tố Hữu có lẽ còn do nguyên nhân khác: Từ rất trẻ anh
đã được ngồi ghế cao: Lãnh đạo văn hoá cứu quốc, Tổng thư kí hội nhà văn, Hội
văn nghệ, Đại biểu quốc hội khi mới ngoài 20 tuổi. Thi không quen ngồi dưới
đất. Một tính cách dở dang: vừa muốn làm nghệ sĩ, vừa muốn làm quan. Đã muốn
làm quan, đã muốn có ghế và giữ ghế thì tất phải sợ cấp trên – cấp trên trực
tiếp là Tố Hữu.
Hoàng Ngọc Hiến thì cho rằng, Nguyễn Đình Thi chắc có một cái vết gì
đấy trong lý lịch nên sợ. Những tay nịnh hót đảng, lên gân lên cốt về chính
trị, nói chung là đều có vết gì đó trong lý lịch như Hoàng Xuân Nhị, Lê Văn
Thiêm, Chế Lan Viên, Hoài Thanh, Nam Mộc, Phan Ngọc…
Năm 2000, tôi vào Sài Gòn. Một buổi sáng tôi ngồi uống cà phê với anh
Nguyễn Hoài Thanh (Cán bộ giảng dạy Đại học Sư phạm Sài Gòn) ở một cái quán vỉa
hè đường Nguyễn Du, thấy Nguyễn Đình Thi đứng ngay gần đấy. Anh đứng trông ra
đường, chắc đang đợi xe đến đón đi đâu đó. Tôi gọi anh và mời anh uống cà phê.
Nguyễn Hoài Thanh nói: “Trông Bác vẫn trẻ lắm!”. Nguyễn Đình Thi nói: “Tôi lúc
trẻ người ta bảo là già, lúc già người ta lại khen là trẻ”. Hỏi anh về sức
khoẻ, anh nói bị tuần hoàn não.
Khi anh ốm nặng (2004) tôi có đến thăm. Hôm ấy anh vừa được uống cổ
linh chi, một thứ thuốc quý hiếm, được coi là thần dược. Người khoẻ lại hẳn.
Chân tay co duỗi thoải mái. Anh thử biểu diễn cho tôi xem, có vẻ vui và
tin tưởng lắm. Chị Tuệ Minh chăm sóc anh. Anh nói nhỏ với tôi: “Anh đến thăm
tôi thế này là quý hoá lắm!” Rồi anh giới thiệu tôi với chị Tuệ Minh. Vậy mà
chỉ mấy ngày sau, anh qua đời.
Về sáng tác và nhất là về con người Nguyễn Đình Thi, kẻ khen không ít,
người chê cũng nhiều.
Điều ấy chắc anh biết rõ. Nhưng anh không bao giờ thanh minh, không bao
giờ tự bào chữa.
Hoàng Ngọc Hiến cho đó là một chỗ rất được của Nguyễn Đình Thi.
Láng Hạ, ngày 1.1.2008 - NĐM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét