Mộc Nhân
Trong hầu hết các tự điển tiếng Việt đều giải nghĩa “mục đồng” là trẻ chăn trâu bò (mục: trâu bò, rộng hơn là gia súc; đồng: đứa trẻ); có sách còn chua thêm rành rẽ: đây là từ cũ, hay dùng trong văn chương. Ngày nay, người ta hay gọi vui là “trẻ trâu”; về nghĩa là tương đồng tuy nhiên ba từ này khác nhau về sắc thái ý nghĩa: (a) mục đồng: mang sắc thái trang trọng; (b) trẻ chăn trâu: mang sắc thái bình thường, trung tính; (c) trẻ trâu: mang sắc thái suồng sả, coi thường, diễu cợt – có khi là vui đùa. Tùy theo ngữ cảnh hay sân si hoặc nhã hứng mà người ta tùy nghi nhả chữ.
Mục đồng luôn gợi nhớ tuổi thơ gắn với hình ảnh
chú bé chăn trâu đội nón cời hay đầu trần tóc chỏm, ngồi trên lưng trâu đọc
sách, phất cờ lau hay cầm diều, thổi sáo trên cánh đồng trong buổi hoàng hôn;
các chú trâu bụng no tròn thả những bước chân chậm chạp trên đường đồng lối
quê. Đó là những hình ảnh gần gũi, gắn với kỷ niệm tuổi thơ, trở thành biểu tượng
của làng quê và cũng là cái thú đi vào văn thơ nhạc họa: “Ai bảo chăn trâu là khổ/ Chăn trâu sướng lắm chứ/ Ngồi mình trâu, phất
ngọn cờ lau/ Và miệng hát nghêu ngao” (Em bé quê - ca khúc Phạm Duy).
Những câu ca giản dị nhẹ nhàng như thế khiến người ta
cảm thấy an yên, và dễ rưng rưng cảm xúc.
Hình ảnh mục đồng cũng gắn liền với những bài thơ cổ
điển nổi tiếng. Trần Nhân Tông có bài thơ “Thiên Trường vãn vọng” (Ngắm cảnh Buổi chiều từ phủ Thiên Trường):
“Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên/ Bán vô,
bán hữu tịch dương biên/ Mục đồng địch lý ngưu quy tận/ Bạch lộ song song phi
há điền.” Dịch nghĩa: (Trước thôn,
sau thôn, cảnh mờ nhạt như khói phủ/ Bóng chiều tà nửa không, nửa có/ Trẻ chăn
trâu thổi sáo dẫn trâu về/ Từng hàng cò trắng hạ cánh xuống đồng).
Bài thơ là một bức tranh đẹp êm ả có hình ảnh mục đồng
thổi sáo dẫn trâu về chuồng cùng tiếng sáo vẳng, có đôi cò trắng (bạch lộ) kiếm
ăn giữa ruộng lúa đang lên xanh, một nét vui đồng ruộng ẩn giấu trong đó một niềm
vui hạnh phúc tình yêu, hoặc cao hơn, một sự sinh sôi của sự sống.
Lưu Giá - nhà thơ thời Đường có bài thơ “Mục đồng” khá hay: “Mục đồng kiến khách bái/ Sơn quả hoài trung
lạc/ Trú nhật khu ngưu quy/ Tiền khê phong vũ ác”. Dịch nghĩa: (Trẻ
chăn trâu thấy người lạ cũng biết vái chào/ Nó tiếc các trái cây rụng trong
núi/ Hàng ngày lùa trâu về/ Gặp mưa to gió lớn trước suối).
Lôi Chấn có bài thơ “Thôn vãn”: “Thảo mãn trì đường
thuỷ mãn pha/ Sơn hàm lạc nhật tẩm hàn y/ Mục đồng quy khứ hoành ngưu bối/ Đoản
địch vô xoang tín khẩu xuy”. Bản dịch thơ của Ngô Văn Phú: “Ao chuôm cỏ nước đầy phè/ Mặt trời gác núi
lê thê sóng chiều/ Mục đồng vắt vẻo lưng trâu/ Miệng xinh thổi sáo nhạc nào vu
vơ”.
Mục đồng không chỉ gắn với nét dễ thương hồn nhiên mà
đó còn là những chú bé thông minh, chăm ngoan chịu khó. Nhà văn Đức Grim kể
trong cuốn “Truyện cổ Grim”: Xưa, có
một chú bé mục đồng nổi tiếng khắp nước về tài ứng đối. Tiếng đồn đến tai nhà
vua, nhà vua không tin, cho triệu em đến để thử tài. Nhà vua nói: “Nếu con giải
được ba câu đố của ta, thì ta sẽ coi con như con đẻ và con sống bên ta ở trong
cung điện này. Chú bé nói: “Tâu bệ hạ, ba câu gì ạ?
Vua ra câu đố thứ nhất: “Biển có bao nhiêu giọt nước?”
Chú bé mục đồng thưa: “Tâu bệ hạ, xin người cho chặn tất cả sông ngòi trên trái
đất, đợi con đếm từng giọt rồi hãy cho chảy ra biển. Sau đó con sẽ xin thưa bệ
hạ biển có bao nhiêu giọt nước”.
Vua ra câu đố thứ hai thế này: “Trên trời có bao nhiêu
sao?” Chú bé xin một tờ giấy trắng thật to rồi cầm giấy, lấy bút chấm la liệt
những chấm tí ti lên giấy, chấm nhiều vô kể lại nhỏ ly ti nên không tài nào đếm
được, ai nhìn vào cũng hoa cả mắt. Sau đó chú bé tâu vua: “Tâu bệ hạ, trên giấy
có bao nhiêu chấm, thì trên trời có từng ấy sao, cứ đếm thì biết”. Nhưng chẳng
một ai đếm nổi!
Vua ra câu đố thứ ba: “Thời gian vô tận có bao nhiêu
giây đồng hồ?” Chú bé mục đồng thưa: “Tâu bệ hạ, ở xứ Hinterpommern có ngọn núi
Demant, phải leo một tiếng mới đến ngọn núi, phải đi một tiếng mới hết bề
ngang, lại phải xuống một tiếng mới tới đáy hang núi, có một con chim nhỏ xíu,
cứ cách trăm năm lại bay đến mài mỏ vào vách núi. Khi nào núi bị chim mài nhẵn
tới đáy hang thì lúc đó giây đồng hồ đầu tiên của thời gian vô tận mới trôi
qua”.
Nghe xong, vua phán: “Con đã giải ba câu đố tinh thông
như một nhà hiền triết. Từ nay trở đi con sẽ ở bên ta trong cung điện này, ta
coi con như con đẻ của ta.
Nhà văn Pháp Le Clézio, Nobel Văn chương 2008 có tác
phẩm “Lũ mục đồng” nói về
những đứa trẻ với những cảnh ngộ khác nhau nhưng chúng đều mang theo những giấc
mơ của mình trong sự huyên náo của đời sống, dấn mình vào những cuộc phiêu lưu
kì thú trong thiên nhiên, qua đó nhắc người ta nhớ về những giấc mơ, thủy chung
vẫn luôn nằm sâu trong kí ức con người, nhưng bấy lâu bị cố tình lãng quên, vùi
lấp.
Theo lịch sử, trâu có ảnh hưởng đến con người nhiều
hơn tất cả các loài động vật khác ở đồng bằng. Nó là công cụ lao động, là cơ
ngơi nhà nông, là sự sống, là thức ăn, là nguyên vật liệu chế tác các vật dụng
đời sống…
Người Phương Tây có câu nói so sánh giữa trâu với bò để
rút ra bài học ứng xử với khó khăn thử thách: “Bò chạy trốn khỏi cơn bão trong
khi trâu lao về phía bão và đi xuyên qua nó, vượt qua nó nhanh hơn. Bất cứ khi
nào tôi phải đối mặt với một thử thách khó khăn, tôi không kéo dài sự đau khổ,
tôi trở thành trâu rừng” (Cows run away
from the storm while the buffalo charges toward it - and gets through it
quicker. Whenever I’m confronted with a tough challenge, I do not prolong the
torment, I become the buffalo.)
Trong Phật pháp và trong Thiền học, hình ảnh mục đồng
trong “Thập Ngưu Đồ” (mười bức
tranh về chú mục đồng và con trâu) mô tả những giai đoạn tu chứng để đi đến
giác ngộ và vào đời giúp người. Ở đây con trâu biểu tượng cho bản ngã, cái tôi
là cái chúng ta đang tìm kiếm: Bức 1: Mục đồng tìm trâu (tượng trưng cho người
đi tìm bản ngã). Bức 2: Thấy dấu con trâu (tượng trưng cho người đã tìm thấy hướng
đi trên đường tu tập). Bức 3: Thấy trâu (tượng trưng cho người đã tìm thấy
mình, hiểu rõ về bản ngã, và thực tướng). Bức 4: Bắt trâu (tượng trưng cho người
hiểu bản ngã nhưng không dễ gì tu tập vì còn vướng cuộc sống bản năng). Bức 5:
Chăn trâu (tượng trưng cho người đã bắt đầu giác ngộ và giữ giới luật). Bức 6:
Cưỡi trâu (tượng trưng cho người đã thuần hóa cái tôi, làm chủ được mình). Bức
7: Không còn bận tâm với con trâu (tượng trưng cho người an nhiên tự tại quên
đi cái ngã trong mình). Bức 8: Quên người lẫn trâu (mọi phiền não, vướng mắc, đều
để qua một bên, chỉ còn lại sự tĩnh lặng tuyệt đối, tức là bước vào cảnh giới
vô ngã, vô thường và không). Bức 9: Trở về cội nguồn (tức là quay về “Bản tính
thanh tịnh” ở ngay trong ta, giúp ta trở về cảnh giới giác ngộ). Bức 10: Thong
dong vào đời: chú mục đồng giờ đây có Phật tánh, đạt cảnh giới giác ngộ
thăng hoa toàn diện về thể chất lẫn tinh thần).
Trâu ví như vọng tâm điên đảo. Mười bức
tranh trên cho thấy quá trình thuần hóa trâu để cho nó trở thành hiền
hòa và chịu phục tùng theo con người là một quá trình mang
tính biểu tượng về mặt giáo hóa và chuyển hóa tâm
linh.
Hiện nay ở làng Phong Lệ (xã Hòa Châu, huyện Hòa Vang)
vẫn giữ được lễ hội dành riêng cho trẻ chăn trâu có một không hai ở nước ta (lễ
rước Mục đồng).
Truyền thuyết kể rằng ngày xưa ở làng Phong Lệ có cụ
già đi lạc đến làng, được các em chăn trâu yêu mến, mang cho cơm nước cùng ăn.
Khi qua đời, cụ được mai táng tại một khu đất cồn ở làng. Điều lạ là kể từ đó,
khu đất ấy chỉ có đám trẻ chăn trâu mới đến chơi được, còn ai vào cũng bị dính
chặt chân vào đất khó mà dứt ra. Từ đó trở đi, cồn thần được cho là nơi chỉ có
trẻ chăn trâu tập trung, chơi đùa, từ câu chuyện này, lễ hội độc đáo dành riêng
cho trẻ chăn trâu đã ra đời và được gọi là lễ rước mục đồng.
Lễ rước mục đồng ngoài ý nghĩa tâm linh còn mang ý
nghĩa văn hóa xã hội nhằm tôn vinh trẻ chăn trâu. Trân trọng các em cũng là
trân trọng những người lao động nghèo khó, bởi chính họ là những người góp phần
tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Mục đồng mang nhiều ý nghĩa đời sống, nhân văn, tâm,
thiền, đạo… gắn với văn hóa, tín ngưỡng con người.
Vậy cớ chi chúng ta lại kì thị, hạ thấp những giá trị
bản thể của mục đồng. Hãy thử quay về với tuổi thơ, với bản lai diện mục của
mình trong một chiều ngắm mục đồng trên đường quê ngõ làng mà thấy lòng mình thảnh
thơi thiền tịnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét