Trích chương XXI – Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh
Hoàng Ngọc Hiến là một
trong hai người bạn đồng tuế thân nhất của tôi (người thứ hai là Phạm Luận, cán
bộ giảng dạy ở Đại học Việt Bắc). Có thể gọi là tri âm tri kỉ, hiểu nhau từ cái
hay đến cái dở, chỗ mạnh và chỗ yếu, hoàn toàn tin cậy nhau, luôn quan tâm bảo
vệ nhau.
Một tuyển tập của Hoàng Ngọc Hiến |
Tôi với Hoàng Ngọc Hiến
như có duyên trời xe kết vậy. Anh ở tận Nghệ Tĩnh, tôi ở Việt Bắc. Thế mà tình
cờ gặp nhau. Tôi cùng gia đình tản cư từ Bắc Ninh lên Thái Nguyên hồi kháng
chiến chống Pháp, anh thì chạy cải cách ruộng đất cũng vọt lên đấy. Anh có một
người học trò tên là Lới, trong đoàn uỷ cải cách ruộng đất, báo cho biết phải
chạy ngay lên Việt Bắc vì lý lịch xấu, có thể nguy. Và anh ta lấy quyền đoàn uỷ
viên giải quyết ngay cho Hiến (Trong cải cách, bố Hoàng Ngọc Hiến bị quy địa
chủ và bị tù). Lên Thái Nguyên, anh dạy văn ở trường Lương Ngọc Quyến. Còn tôi
lúc đó là cán bộ Sở giáo dục Việt Bắc thường đến Lương Ngọc Quyến là trường
trọng điểm của Sở, để kiểm tra, theo dõi về chuyên môn.
Dạy ở Lương Ngọc Quyến ít
lâu, anh được gọi về trường Đại học Hà Nội. Thầy Nguyễn Lương Ngọc cho Hiến có
hiểu biết về triết học, bố trí làm trợ lý cho Trần ĐứcThảo. Trần Đức Thảo thấy
Hiến là đảng viên, không nhận. Vì thế Hiến phải chuyển sang làm trợ lý cho
Hoàng Xuân Nhị dạy văn học Nga Xô viết.
Từ Đại học Sư phạm Hà
Nội, Hiến được cử sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh. Tôi thì chả đi đâu cả, chỉ
quanh quẩn ở trong nước. Nhưng rồi tình cờ tôi và Hiến lại gặp nhau ở Đại học
Sư phạm Vinh. Tôi thì bị điều từ Hà Nội vào. Hiến lẽ ra được ở Hà Nội, vì Đại
học Hà Nội cử đi học, nay đỗ phó Tiến sĩ trở về, phải được ở Hà Nội. Nhưng Đỗ
Đức Uyên bí thư đảng uỷ và Hoàng Dung bí thư liên chi cho Hiến mắc chủ nghĩa
xét lại Khrútxốp, không nhận lại nữa, tống anh vào Vinh.
Từ Vinh, tôi được chuyển
ra Hà Nội trước. Hiến ra sau. Nhưng rồi lại gặp nhau ở trường Viết văn Nguyễn
Du. Anh phụ trách trường này, còn tôi được mời đến dạy.
Rồi nhờ có Phan Ngọc Thu,
một học trò cũ của tôi, lúc đầu ở Đại học Sư phạm Huế, sau ở Đại học Đà Nẵng,
tổ chức đào tạo giáo viên cấp II lên trình độ đại học và bồi dưỡng giáo viên
chuyên văn, thường mời tôi và Hiến vào giúp. Thế là lại gặp nhau luôn, khi ở
Huế, khi ở Đà Nẵng, khi ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Tôi thích đi, Hiến
cũng thế. Tôi là thằng ham chơi, vui đâu chầu đấy, Hiến cũng vậy, cứ ới là đi,
để tán chuyện, để đánh chén. Ngoài ra tôi hay mời anh đến làm phản biện cho
nghiên cứu sinh của mình. Mời là anh đến ngay…
Tuy nhiên tôi và Hiến có
những chỗ không giống nhau. Anh dạy văn học nước ngoài, thích lý luận, thiên về
tư duy trừu tượng, say mê triết học Đông Tây. Tôi chỉ dạy văn học Việt Nam và
thiên về nghiên cứu văn học sử và phê bình văn học.
Hiến rất thích nhận xét
khái quát, đúc thành những mệnh đề chắc nịch, tuy có phần cực đoan, chẳng hạn: -
Đặc điểm người Nghệ Tĩnh: “Cái gì cũng biết, trừ hạnh phúc.” – Phân loại cán bộ
giảng dạy đại học: “Có hai loại động vật và thực vật. Loại động vật, suốt ngày
lăng xăng, chạy từ đề tài này sang đề tài khác, không nghiên cứu được cái gì
nên hồn, dù thông minh, cũng chỉ có những ý kiến loe loé thế thôi, chẳng làm
nên sự nghiệp gì. Loại thực vật, ngồi yên kiên trì suy nghĩ, như cái cây cắm rễ
xuống đất thật sâu, có thế mới làm khoa học được.” – ý kiến sinh viên nhận xét
thầy: “Nói chung chê thì đúng, khen thì thường sai…”
Hiến cái gì cũng muốn
giải thích, cũng tìm quy luật. Thí dụ: Anh nói: “Lê Hoài Nam nếu cao hơn 5
phân, số phận khác hẳn”. Lê Hoài Nam là chủ nhiệm khoa Văn Đại học Sư phạm
Vinh, sau là bí thư đảng uỷ trường và Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Quy Nhơn. Anh
người thấp lùn, hơi dị dạng. Hiến cho rằng vì đặc điểm cơ thể như vậy nên Lê
Hoài Nam rất ngại xuất hiện ở chỗ đông người, nơi thành phố lớn, nên cứ lùi
dần, lùi dần vào nơi hẻo lánh: Vinh, rồi Quy Nhơn.
Có lần tôi nhận xét, các
danh nhân thế giới thường là người ở các tỉnh nhỏ, nhưng về Thủ đô thì thành
danh nhân. Danh nhân người gốc ở Thủ đô rất ít. Như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi,
Quang Trung, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Hồ Chí Minh, như Marx, Tolstoi,
Lomonosov, Napoléon… Hiến giải thích luôn: “Vì ở Thủ đô lắm cái hấp dẫn làm cho
con người ở đây phung phí hết tinh lực, người các địa phương tinh lực không
mất, về Thủ đô được phát huy lên”. (...)
Hiến thường có những nhận xét rất gọn và rất ác về người này người khác trong giới đại học. Hồi ở Đại học Sư phạm Vinh, tôi với Hiến thường đạp xe đi về cùng đường với nhau (Hà Nội – Vinh hay Hà Nội – Thanh Hoá) dọc đường, thường “luận anh hùng” trong thiên hạ. Thường tôi hỏi, Hiến trả lời. Thí dụ: – NĐN (một giáo sư tiến sĩ được đánh giá rất cao ở Đại học Sư phạm Hà Nội) chỉ là một giáo viên cấp III giỏi (Nguyễn Đăng Na- dự đoán) – Không nên đánh giá ĐVK (giáo sư tiến sĩ của Đại học tổng hợp Hà Nội) là giỏi hay dốt. Anh ta là người không có trí khôn (Đỗ Văn Khang- dự đoán). (...)
Hiến có những nhận xét rất cảm tính, nghĩa là chưa có căn cứ đầy đủ. Nhưng anh rất tin ở trực cảm của mình.
Trường Đại học Sư phạm
Vinh có chủ trương cán bộ giảng dạy phải theo sát thực tế phổ thông. Ai đã đi
hướng dẫn thực tập sư phạm thì không nói làm gì, những những người không hướng
dẫn thực tập cũng phải về ở một đoàn thực tập nào đấy khoảng một tuần lễ, gọi
là tham quan thực tập. Hiến cũng phải về một đoàn, anh chọn một đoàn ở gần chỗ
khoa Văn sơ tán, do LBH phụ trách. (Lê Bá Hán- dự đoán). Đêm ấy, LBH và Hiến
cùng ngủ trong một căn phòng kê hai cái giường song song. LBH hỏi Hiến một cách
trịnh trọng: “Anh là người sâu sắc, từ ngày anh về trường này, anh nhận xét tôi
là người thế nào?”. Hiến trả lời luôn: “Cậu là người thiếu nhân cách”. LBH lắng
đi một lúc vì nhận xét quá bất ngờ của Hiến. Nhưng rồi gặng hỏi Hiến: “Anh cho
dẫn chứng?”. Hiến bí không tìm ra dẫn chứng. Mãi sau cũng cố đưa ra một ví dụ:
“Chẳng hạn, cậu không biết tiếng Pháp mà cứ làm như biết”.
Trong quan hệ hàng ngày với tập thể cán bộ, sinh viên, Hiến rất hồn nhiên, chân thật, dễ tính, nên được anh em mến. Nhưng hình như anh có máu phiến loạn, thích gây sự với lãnh đạo. (...)
Ở Đại
học Sư phạm Vinh, Hiến bị lãnh đạo quy tội thiếu quan điểm giáo dục, vì không
chịu đi thực tế, luôn luôn bỏ ra Hà Nội, lẩn tránh việc hướng dẫn sinh viên
thực tập sư phạm. Hôm ấy, chi bộ họp kiểm thảo Hiến về khuyết điểm này, có Lê
Hoài Nam là đảng uỷ viên của trường xuống dự. Hiến nói: “Tôi cho rằng không đi
thực tế mà nắm được thực tế mới giỏi. Tôi kém, nên còn phải đi thực tế một lần.
Anh Lê Hoài Nam không đi lần nào mà nắm được thực tế mới giỏi chứ!”
Những câu nói như thế,
tôi chắc Hiến đều có nghiền ngẫm cẩn thận. Phóng ra những đòn như thế, Hiến bao
giờ cũng chuẩn bị rất chu đáo. Tôi biết rõ điều này. Vì cùng được mời đi nói
chuyện với anh nhiều lần, tôi thấy anh bao giờ cũng chuẩn bị bài bản rất cẩn
thận.
Trở lại tính thích gây sự
của Hiến đối với lãnh đạo. Như đã nói, Hiến ít ở khoa (Đại học sư phạm Vinh),
hay ra Hà Nội. Có lần anh vắng mặt đúng vào dịp công đoàn khoa văn xếp loại cán
bộ theo ba mức A, B, C. Tiêu chuẩn cũng nhẹ nhàng thôi. Loại A chỉ là không có
khuyết điểm gì đáng kể thôi. Hầu như cả khoa không có trường hợp nào phải xếp
loại B cả. Tổ công đoàn, được sự chỉ đạo của chi bộ Đảng, lập kế hoạch: khi
Hiến ở Hà Nội vào thì họp xếp loại. Chủ trương của Chi bộ là phải, nhân cuộc
xếp loại này, nghiêm khắc kiểm điểm Hiến về tư tưởng. Trình tự cuộc xếp loại
được dự kiến như sau: người được xếp loại tự xếp loại trước. Anh em trong tổ có
ý kiến sau. Người ta đoán chắc Hiến sẽ tự nhận loại A. Lúc đó anh tổ trưởng sẽ
điều khiển tổ viên phân tích thiếu sót của Hiến, đại khái như sau: Anh Hiến chỉ
đáng xếp loại B thôi, vì khuyết điểm này, khuyết điểm khác… Nhưng gần đây anh
đã tỏ ra có tiến bộ, thí dụ như gánh nước uống cho anh em tập tự vệ, vậy ta
chiếu cố xếp lên loại A… Nhưng, bất ngờ, Hiến chỉ tự xếp loại B. Bài bản đã dự
kiến thế là bị phá sản. Tuy thế, tổ trưởng là tay khá thông minh, anh ta vẫn
tìm được cách thực hiện phương án cũ: “Đúng, anh Hiến tự xếp mình loại B là
đúng (Phân tích khuyết điểm của Hiến một chập). Nhưng vì gần đây có một vài
tiến bộ nên ta chiếu cố xếp lên loại A”. Hiến nhất định không nghe, chỉ nhận
loại B thôi. Anh nói: “Đối với tôi A hay B cũng thế thôi. Và tôi chẳng tiến bộ
gì cả. Còn nếu các anh muốn tìm chỗ tiến bộ thật sự của tôi thì tôi xin mách:
tôi rất tiến bộ về chuyên môn, soạn bài rất kỹ”.
Mà đúng như vậy thật. Tôi đã dự giờ Hiến dạy một lần. Anh soạn bài rất nghiêm túc. Anh muốn ý tưởng của mình phải được trình bầy thật sáng rõ, rành mạch, gây ấn tượng và có sức thuyết phục. Hoàng Ngọc Hiến có một phản ứng khá dữ dội, chung quanh vụ “hiện thực phải đạo” (Hoàng Ngọc Hiến viết bài Về một đặc điểm của văn học nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua đăng Văn nghệ số 23 (9.6.1979) có luận điểm nổi tiếng “hiện thực phải đạo”). Hồi ấy anh còn ở Triệu Việt Vương. Tôi đến anh một buổi chiều. Anh kể một câu chuyện vừa xẩy ra với anh: sau bài “hiện thực phải đạo”, anh bị đánh rất mạnh. (...) Ban biên tập Tạp chí Cộng sản giải thích với Hiến: “Hiện nay bọn Tàu đang gây sự ở biên giới. Tạp chí phải dành giấy để đăng bài phê phán chủ nghĩa bá quyền Bắc Kinh, không đăng bài của anh được”. Hiến phản ứng ngay: “Tại sao ta thừa giấy để đánh bọn cường bạo nước ngoài, lại thiếu giấy để đánh bọn cường bạo trong nước!”.
Năm 1980, người ta
tổ chức một cuộc hội nghị khoa học đặt ở Viện bảo tàng cách mạng gần Nhà hát
lớn Hà Nội. Hội nghị toàn quốc, rất đông. Tôi có gặp một số bạn quen ở Vinh,
Huế ra họp. Hoàng Ngọc Hiến hôm ấy nói buông mà rất rành mạch, hấp dẫn. anh
nhắc lại cái câu đã nói ở trụ sở Tạp chí Cộng sản: “Tại sao ta thừa giấy để
đánh bọn cường bạo nước ngoài, mà lại thiếu giấy để đánh bọn cường bạo trong
nước!”. (...)
Buổi trưa hôm ấy, Hiến rủ tôi về nhà ăn cơm. Trong bữa cơm, Hiến hỏi tôi: “Sao, cậu thấy mình nói có được không ?”. Tôi khen: “Khá lắm!”. Chị Tố Nga, vợ Hiến, mách luôn: “Lẩm bẩm suốt đêm, làm gì mà không khá!”. Thì ra Hiến không phải chỉ chuẩn bị ý, mà còn luyện nói nữa. Hiến thế mà cũng là một tay đấu khẩu khá nhanh trí và đáo để.
Cũng vào khoảng trước sau
năm 1980, khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội có tổ chức một cuộc hội thảo khoa
học, đề tài: giáo dục tư tưởng qua giảng dạy văn học. Hiến lúc đó vẫn còn ở Đại
học Sư phạm Vinh. Anh ra dự hội nghị. Không biết bản báo cáo viết của anh gửi
ra như thế nào, nhưng anh trình bầy miệng thì khá gai góc, và hình như anh lại
cố tình diễn đạt cho thật ấn tượng về cái ý rất gai góc của mình. Anh cứ thủng
thẳng nói đi nói lại: “Những gì chi bộ Đảng, đoàn thanh niên, đài phát thanh,
báo Đảng đã nói hay viết, thì trong lớp ta không nói. Ta chỉ nói những điều chi
bộ Đảng, đoàn thanh niên, đài phát thanh, báo Đảng không nói, không viết”.
Ý kiến của Hoàng Ngọc
Hiến đã gây chấn động hội nghị. Những người lãnh đạo hội nghị rất lo ngại (lãnh
đạo hội nghị là Nguyễn Văn Hạnh quyền chủ nhiệm khoa và Trần Thanh Đạm phó chủ
nhiệm khoa). Đạm thấy nhất thiết phải uốn nắn lại. Anh động viên Đỗ Hữu Châu,
Nguyễn Thị Hoàng lúc đó là đảng viên dự bị hay cảm tình đảng gì đó lên phê phán
Hiến. Tôi không nhớ ý kiến của cô Hoàng thế nào, chỉ nhớ một câu mỉa mai của
Châu: “Đứa trẻ con ngồi trên vai bố, cứ tưởng mình cao hơn bố”.
Hoàng Ngọc Hiến giơ tay xin phát biểu. Anh cố tình tự khoe: “Tôi đã góp phần làm cho hội nghị thành công. Vì một hội nghị khoa học có tranh luận học thuật thì mới là một hội nghị có kết quả. Tôi đã gây được cuộc tranh luận cho hội nghị. Ngoài ra tôi rất sướng vì đã được ngồi trên vai anh Đỗ Hữu Châu”. (...)
Ít ngày sau, tôi đến chơi Hiến – Anh vẫn ở Triệu Việt Vương. Một căn phòng rất hẹp, chỉ độ 16 mét vuông. Kê được hai cái ghế salon và một cái bàn nước nhỏ. Tôi và Hiến ngồi ở salon. Chị Tố Nga, vợ Hiến giải chiếu ngồi trên nền nhà. Chị cứ chỉ tay vào mặt Hiến mà nói đi nói lại xa xả: “Tôi không thấy có ai ngu như anh Hiến!”. Nói mãi chán, chị bỏ ra đi. Hiến thủng thẳng nói với tôi: “Hắn nói thế mà đúng. Như ta vẫn nói đế quốc Mỹ là ngu ấy mà!”. Té ra, lại ngẫm nghĩ về lời nói của vợ, như một đối tượng nghiên cứu.
Chị Tố Nga, vợ Hiến, là
một người cũng khá đặc biệt: chuyên môn mạt sát chồng trước mặt khách khứa bạn
bè, thậm chí trước cả học trò của chồng. Nhưng đám học trò của anh đã có kinh
nghiệm: bà ấy nói thầy Hiến thì được, chứ người khác tưởng bở, cũng phụ hoạ
theo, nói theo, là chết với bà ấy. Còn Hoàng Ngọc Hiến thì coi thường, bỏ ngoài
tai, xem như nói ai đó, chẳng dính dáng gì đến mình.
Hoàng Ngọc Hiến, tư duy
khoa học thì tỏ ra sâu sắc, nhưng trong đời sống thực tế, nhiều khi rất nhẹ dạ,
cả tin. (...)
Tôi cho rằng Hoàng Ngọc Hiến có số “quý nhân phù trợ”. Nghĩa là luôn gặp may. Tôi ví anh với nhân vật Pier Bêdukhốp trong Chiến tranh và hoà bình của L.Tolstoi. Người to lớn, ra trận cứ trương ngực ra mà đi giữa chiến trường, nhưng tên đạn cứ tránh không dính. Đấu súng tuy không biết bắn súng, mà lại thắng một tay thiện xạ… Hiến cũng thế. Ăn nói táo tợn với người có chức có quyền, hành động nhiều khi dại dột. Nhưng chẳng sao cả. Vẫn đi Pháp, đi Mỹ đều đều. Anh kể tôi nghe cái vụ “phải đạo” của anh hồi 1980, anh có một cú thoát hiểm rất ngoạn mục. (...)
Lại vẫn cái vụ “hiện thực phải đạo”. Tôi nhớ giáp Tết âm lịch năm ấy, Khái Vinh có mời tôi, Hiến và Xuân Diệu ăn thịt chó ở Hàng Lược. Lúc đó, dân Nhật Tân đã lục tục đem đào tới bán. Khái Vinh nói, anh Hiến là người có tài mà khổ, bị đánh dữ quá!. Xuân Diệu nói: “Con người ta có trải qua đau khổ thì mới nên người”. Nhưng Hiến lại phát biểu một cách đắc ý: “Những điều tôi được nhiều hơn những điều tôi mất”. Và anh dẫn chứng: “Đứa con gái tôi vào Sài Gòn, giáp Tết bị mắc kẹt ở đấy không ra được vì giao thông khó khăn. Có một anh phi công cho lên ngồi ghế phụ bay ra không mất tiền, vì biết là con ông “hiện thực phải đạo”. Cũng con bé ấy học đến lớp cuối cấp, sắp thi đại học, rất cần có người luyện cho môn toán. Rất may, có một cô giáo tự nguyện đến luyện giúp miễn phí vì biết là con ông “hiện thực phải đạo”. Đó là chưa kể nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đến tận nhà Hiến tặng hoa. Và bài “hiện thực phải đạo” đã làm cho anh nổi tiếng một thời và được nể trọng trong giới trí thức cấp tiến.
Đúng là Hoàng Ngọc Hiến
có quý nhân phù trợ thật.
Hồi Hiến sang Mỹ, có một
bọn Việt kiều chống cộng quá khích định hành hung anh. May sao lại có một
thượng nghị sĩ Mỹ phái một vệ sĩ của ông ta tới bảo vệ – Mới đây Hiến kể với
tôi như vậy.
Tôi rất tin cậy Hoàng
Ngọc Hiến. Nên chịu ảnh hưởng Hiến về nhiều mặt, đặc biệt là trong việc dùng
thuốc. Thuốc huyết áp, thuốc bổ, thuốc loãng xương… Tất nhiên tôi có chịu ảnh
hưởng anh cả về tư duy khoa học. Hiến có tài liệu nào anh cho là hay hoặc nghĩ
ra điều gì có vẻ tâm đắc, đều trao đổi với tôi.
Trò chuyện với Hiến bao
giờ cũng có ích, dù ít dù nhiều, đối với cái nghĩ của mình. “Dữ quân nhất dạ
thoại, thắng độc thập niên thư”. Người xưa nói thế, vận dụng vào trường hợp
Hoàng Ngọc Hiến e có hơi quá. Nhưng quả là trò chuyện với Hiến bao giờ cũng thu
lượm được một cái gì đó có ích. Hiến rất ghét giáo điều và nghĩ cái gì thì nghĩ
đến nơi đến chốn. Tôi cho rằng, mấy phát biểu sau đây của Hiến là những ý kiến
nghe được: Nghiên cứu khoa học, quan trọng nhất là nghĩ bằng cái đầu của mình
và viết bằng lời văn của mình. Đọc người khác rất cần, song phải thấm thế nào
đó để trở thành của mình, để khi nghĩ là nghĩ bằng cái đầu của mình và viết bằng
lời văn của mình. Quán tính của con người là thường quy những điều chưa biết
vào cái sơ đồ có sẵn, sơ đồ biết rồi. Do lười nghĩ. Quán tính rất mạnh, lay
chuyển được quán tính, được cách nghĩ là khoa học. Khoa học trước hết là đặt
vấn đề đích đáng. Tìm ra cái mới hoàn toàn rất khó. Thường chỉ chỉnh lại một
tý. Vấn đề đặt ra đúng, nhưng chưa đúng hẳn. Chỉnh lại một tý như chỉnh ti vi
cho hình nét hơn, âm rõ hơn. Thí dụ, nói Đam San anh hùng dũng cảm là đúng.
Nhưng thực ra tính cách Đam San phong phú hơn: hồn nhiên, trung thực, lãng mạn,
ngỗ nghịch… đặc biệt là một cá tính tự do. Nói Số đỏ đả kích những ông chủ bà chủ của xã hội cũ là đúng,
nhưng đâu chỉ có thế. Số đỏ là cả một
xã hội hài hước gồm đủ hạng người, ai cũng buồn cười, một xã hội ngớ ngẩn, nhí
nhố, lố bịch… , kể cả bình dân.
Hiến khẳng định vai trò
quan trọng của cảm hứng và trực giác. Tôi cho rất đúng. Anh nói, cảm hứng lay
động toàn bộ năng lực tinh thần của người nghiên cứu. Trong giây phút ấy, con
người, cùng một lúc, có vô số liên tưởng, kể cả liên tưởng vô thức. Do đó rất
sáng suốt. Nhưng phải băn khoăn nhức nhối về nhân sinh, về văn học mới có cảm
hứng dẫn tới tìm tòi phát hiện. Cảm hứng làm cho câu, chữ có hồn. Cảm hứng phát
huy trực giác, khiến cảm nhận được cái mới. Mọi tìm tòi đều bắt đầu bằng trực
giác. Sau đó mới dùng suy lý lôgic chỉnh lại (vì thế Hiến rất phục những phán
đoán trực giác của ai đó, chỉ ra chính xác bản chất một đối tượng nào đấy,
không cần lý lẽ chứng minh gì hết).
Phân tích tác phẩm gay
nhất là đọc hết cuốn sách mà chẳng thấy có ý gì cả. Ý là một ý nghĩa mới đích
đáng trả lời một câu hỏi ta đang tìm tòi, đang suy nghĩ để giải đáp. Tác phẩm
chẳng giải đáp được một câu hỏi nào cần thiết, là vô nghĩa.
Phân tích tác phẩm là phân
tích chi tiết. Phải chọn chi tiét có vấn đề. Phân tích một chi tiết mà mở ra cả
một vấn đề về đạo lý, về triết lý. Phân tích một chi tiết như thế có sức thuyết
phục và sang trọng hơn là phân tích tràn lan. Cuối cùng phải tìm từ, tìm chữ
đích đáng để diễn đạt. Một bài viết hay là có được một hai từ đích đáng kết
tinh được cái hiểu, cái ý của mình. Đó là cái thần của bài viết.
Hiến nghĩ thế nên rất
chăm chỉ học chữ, học từ. Có khi học ở dân gian. Thí dụ, anh rất khoái vì học
được chữ “bõ hờn” của một ông người Mường tên là Cò Lửa, chủ nhà chúng tôi ở
nhờ hồi kháng chiến chống Mỹ tại Thạch Thành, Thanh Hoá. Phần nhiều học ở sách
vở. Thí dụ chữ “hương nguyện”, “phường hương nguyện” anh học được của Mạnh Tử
khi nghiên cứu triết học cổ phương Đông. Có lẽ tương đương với chữ philistin chăng?
Có những chữ thông thường
nhưng anh đem đến cho nó một nghĩa mới nào đấy. Như “kể lại nội dung” và “viết
nội dung”. (Bài “Kể lại nội dung và viết nội dung” (Văn học gần …và xa. NXB
giáo dục 2003). Hay như chữ “trí thức bình dân” trong bài anh giới thiệu Tuyển tập Nguyễn đăng Mạnh (NXB Giáo dục
2006)… Có thể gọi trường hợp này là sáng tạo từ mới. Gần đây Hoàng Ngọc Hiến
say mê đọc Nho, Phật, Đạo qua sách của Francois Fulien. Anh lấy làm khoái chí
học được ở F.Julien, sự phân biệt giữa tư duy Đông và Tây. Tây là chân lý
(Vérité). Đông là dịch lý (transformation). Một đằng cứ cãi nhau về chân lý, về
đúng hay sai. Một đằng chủ trương “cùng” hay “thông”. Đúng sai không quan
trọng, quan trọng là không bế tắc, là thông, là được việc, là có hiệu quả thực
tế…
Như đã nói, Hoàng Ngọc
Hiến sống rất hồn nhiên, tự nhiên. Hồi chống Mỹ, sơ tán ở Thạch Thành, Thanh
Hoá, không mấy khi có được miếng thịt mà ăn. Hôm ấy, anh em kiếm được một đĩa
thịt. Hiến vừa ăn, vừa xụt xịt mũi, vừa gật gù: “Ăn thịt ngon thật!”. Tối tối,
anh rất chịu khó cùng với tôi xách đèn đi bắt ốc sên về cải thiện, tin rằng ba
con ốc sên bằng một quả trứng vịt (Hồi ấy có kẻ phao lên như vậy).
Hiến hay nghĩ ra những
chuyện kỳ cục và buồn cười để đùa vui. Thí dụ như chuyện phân loại cán bộ khoa
văn trường Đại học Sư phạm Vinh thành ăn cướp và ăn cắp. Hình như tư duy khoa
học mãi, nghĩ mãi những điều có nghĩa lý, người ta phải thư giãn đầu óc bằng
những chuyện vô nghĩa lý. Hiến đúng là vui đâu chầu đấy. Có một lần Ngô Thảo
nhân quen một Việt kiều về nước, mời tôi, Hiến và Hoàng Cầm đến đánh chén ở một
nhà hàng. Xe đón tôi trước, đón Hiến sau. Trên xe, tôi gọi điện cho Hiến chuẩn
bị ra ngõ để đón xe. Chị Tố Nga, vợ Hiến, cầm máy trả lời: “Lão ấy mời đi họp
thì đến chậm, nhưng mời đi ăn thì đúng giờ lắm!”.
Một lần khác, mới năm
ngoái đấy thôi, anh Vũ Văn Viết ở Việt Trì mời chúng tôi lên dự lễ khai trương
ngôi trường phổ thông dân lập do anh vừa xây dựng. Anh cần nhiều người ở Hà Nội
lên dự cho thật long trọng. Nhưng hôm ấy nhiều người trong danh sách mời không
đi được vì bận việc hay đang đi công tác xa. Ngồi trên xe thấy vắng vẻ quá, tôi
nẩy ra ý mời Hiến, tuy Hiến chẳng quen biết gì Vũ Văn Viết cả. Và Viết cũng
không mời Hiến. Tôi gọi điện. Hiến nhận lời ngay, và lập tức đáp xe ôm đến chỗ
hẹn.
Cái giống nghệ sĩ thật sự
bao giờ cũng rất tự nhiên – nói như Lưu Công Nhân, “tự nhiên như ruồi”. Họ rất
khó tính trong sáng tạo, nhưng rất dễ tính trong sinh hoạt đời thường. Khoa học
cũng là một hoạt động sáng tạo, nhà khoa học cũng là một loại nghệ sĩ, nhất là
khoa học về văn chương. Vì thế Hoàng Ngọc Hiến cũng rất hồn nhiên, tự nhiên,
“tự nhiên như ruồi”.
Hiến là dân Nghệ Tĩnh
nhưng lại chê dân Nghệ rằng “cái gì cũng biết, trừ hạnh phúc”. Nhưng chính Hiến
cũng rất Nghệ. Một tay đầy nghị lực. Tập thể dục rất kiên trì. Nghiện cả thuốc
lá, thuốc lào mà bỏ hẳn (Bỏ mà vẫn cho hút thuốc lá là thích nhất. Anh nói “Khi
nào sắp chết sẽ hút lại”). Gần 80 tuổi vẫn cả ngày ôm cái máy vi tính để lấy
thông tin và luyện ngoại ngữ. Rồi đọc sách, dịch sách, viết sách… Tôi là dân
Bắc Kỳ, kém xa Hiến về mặt này. Hiến đích thực là dân Nghệ, đúng thế, nhưng là
một tay Nghệ “cái gì cũng biết, kể cả hạnh phúc”. Vì tôi biết chưa bao giờ anh
từ chối một lạc thú trần thế, trần tục nào.
NĐM - Láng Hạ, 20.5.2007
* Tham khảo thêm về HNH:
- Tại Wikipedia
- Báo Tuổi Trẻ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét