John Ashbery (1927 - 2017) được công nhận là một trong những nhà thơ Mỹ vĩ đại nhất thế kỷ 20. Ashbery đã xuất bản hơn 30 tập thơ kể từ năm 1970; đã giành được gần như mọi giải thưởng thơ ca lớn của Mỹ, bao gồm Giải Pulitzer, Giải thưởng Sách Quốc gia, Giải thưởng Nhà thơ trẻ Yale, Giải thưởng Bollingen, Giải thưởng Thơ Ruth Lilly, Giải thưởng Quốc tế Griffin, và Giải thưởng “Thiên tài” MacArthur.
Thơ của Ashbery thách thức người đọc loại bỏ mọi giả định về mục đích, chủ đề và bối cảnh văn bản để ủng hộ một nền văn học vượt qua giới hạn của ngôn ngữ và sự biến động của ý thức. Vào năm 2008, nhà phê bình Langdon Hammer đã nhận xét, “Không có bóng dáng nào nổi bật trong nền thơ ca Mỹ hơn 50 năm qua như John Ashbery” (No figure looms so large in American poetry over the past 50 years as John Ashbery).
Cuốn sách đầu tiên của Ashbery, Some Trees (1956), đã giành được Giải thưởng Nhà thơ trẻ của ĐH Yale. Cuộc thi được giám khảo W.H. Auden, người nổi tiếng sau này thú nhận rằng ông không hiểu một từ nào trong bản thảo đoạt giải. Ashbery đã xuất bản một loạt các bộ sưu tập thành công và có ảnh hưởng trong những năm 1960 và 70, bao gồm:
Self-Portrait in a Convex Mirror (Chân dung tự họa trong gương lồi) được nhiều người coi là kiệt tác của Ashbery, giành được Giải thưởng Pulitzer, Giải thưởng Sách Quốc gia và Giải thưởng Hội Nhà phê bình Sách Quốc gia, một danh hiệu lớn chưa từng có trong thế giới văn học. Tác phẩm nêu lên suy ngẫm về bức “Chân dung tự họa” của Francesco Parmigianino, qua đó cho chúng ta thấy ảnh hưởng của nghệ thuật thị giác đối với phong cách của Ashbery trong việc sáng tác thơ.
Houseboat Days (Những ngày trong mui thuyền) được đánh giá là “cuốn sách thú vị nhất, nguyên bản
nhất về các bài thơ đã xuất hiện vào những năm 1970” (the most exciting, most
original book of poems to have appeared in the 1970s). Nhà phê bình Roger
Shattuck nhận xét trên Tạp chí New York Review of Books: “Gần như mọi bài thơ
trong Houseboat Days đều cho thấy con mắt hiện tượng học của Ashbery không tập
trung nhiều vào cuộc sống bình thường và hành động cụ thể là sáng tác một bài
thơ”.
Tuyển tập A Wave (Một con sóng) được giới phê bình đánh giá cao đã giành được cả
Giải thưởng thơ ca Lenore Marshall và Giải thưởng Bollingen.
Bài thơ sử thi Flow Chart (Biểu đồ hải lưu) của Ashbery
được đánh giá là “Hơn bất kỳ cuốn sách nào khác của ông… Flow Chart là một danh mục, mà Ashbery trình bày mở rộng để giải
thích chủ đề của nó”.
Tuyển tập Hotel Lautréamont (Khách sạn Lautréamont) đã vấp phải nhiều phản ứng chỉ trích trái chiều. Nicholas Everett đã lưu ý
trong Tạp chí Văn học Thời đại: “Những người mong đợi thơ ca gợi lên một trải
nghiệm hoặc sự kiện cụ thể, có thật hay hư cấu, sẽ luôn thấy tác phẩm của
Ashbery gây thất vọng, buồn tẻ. Tự chúng rất chung chung và khó nắm bắt; mặc
dù khi lướt qua nó nói lên rất nhiều điều tốt đẹp nhưng cuối cùng thì các
phương tiện chỉ mang tính chất bắt chước”.
Các nhà phê bình lưu ý rằng
thơ của Ashbery đã hình thành như thế nào dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa biểu hiện
trừu tượng (abstract expressionism), một phong trào trong hội họa hiện đại của
Mỹ nhấn mạnh đến các phương pháp hình dung hiện thực không mang tính đại diện.
“Nghệ thuật hiện đại là tác phẩm đầu tiên và ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến
Ashbery,” Helen McNeil tuyên bố trong Tạp chí Văn học Thời đại. “Khi ông bắt đầu
viết vào những năm 1950, thơ Mỹ bị bó buộc và mang tính hình thức trong khi nghệ
thuật biểu hiện trừu tượng của Mỹ đang mạnh mẽ tiếp nhận những trách nhiệm của
người tiên phong châu Âu”. Đúng với ảnh hưởng này, các bài thơ của Ashbery,
theo Fred Moramarco trên Tạp chí Văn học Hiện đại, là một “bức tranh ngôn từ” (verbal canvas) mà nhà thơ tự do áp dụng
các kỹ thuật của chủ nghĩa biểu hiện. Kinh nghiệm của Ashbery với tư cách là một
nhà phê bình nghệ thuật ở Pháp trong những năm 1950 và 60, và ở New York cho
các tạp chí như New York và Partisan Review đã củng cố mối quan hệ của ông với
chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng. Nhưng thơ của Ashbery, như các nhà phê bình
quan sát, đã phát triển dưới nhiều ảnh hưởng khác nhau bên cạnh nghệ thuật hiện
đại, cuối cùng trở thành sự thể hiện giọng nói của riêng anh ấy không thể nhầm
lẫn. Những ảnh hưởng của Ashbery bao gồm truyền thống Lãng mạn trong thơ ca Hoa
Kỳ tiến triển từ Whitman đến Wallace Stevens, Trường thơ New York với những người
cùng thời như Frank O'Hara, James Schuyler và Kenneth Koch, và các tác giả siêu
thực Pháp mà Ashbery đã giới thiệu trong tác phẩm của mình như một nhà phê bình
và dịch thuật.
Phong cách của Ashbery là
sự kết hợp giữa: tự phản ảnh (self-reflexive),
nhiều giọng điệu (multi-phonic), tự sự
rời rạc (vaguely narrative), văn hóa
đại chúng (pop culture) và hàm ngôn (allusion)
đã trở nên có ảnh hưởng đến mức nhiều người học theo. Mặc dù ngay cả những người
ủng hộ mạnh mẽ nhất của ông. đồng ý rằng thơ của ông thường khó đọc và cố ý gây
khó hiểu, nhiều nhà phê bình cũng nhận xét về cách mà phong cách uyển chuyển của
Ashbery truyền tải một mối quan tâm lớn trong thơ của ông: việc từ chối áp đặt
một trật tự tùy ý vào một thế giới đầy biến động và hỗn loạn. Trong câu thơ của
mình, Ashbery đã cố gắng phản ánh dòng nhận thức mà ý thức của con người được cấu
thành.
Ông nói “Tôi không tìm thấy
bất kỳ câu nói trực tiếp nào trong cuộc sống. Thơ của tôi bắt chước hoặc tái tạo
cách mà kiến thức hoặc nhận thức đến với tôi, đó là sự phù hợp và bắt đầu và
bằng cách định hướng. Tôi không nghĩ rằng thơ được sắp xếp theo khuôn mẫu gọn
gàng sẽ phản ánh tình trạng đó. Thơ của tôi không còn tồn tại, nhưng rồi cuộc sống
cũng vậy” (I don’t find any direct statements in life. My poetry imitates or
reproduces the way knowledge or awareness come to me, which is by fits and
starts and by indirection. I don’t think poetry arranged in neat patterns would
reflect that situation. My poetry is disjunct, but then so is life).
Những
bài thơ của ông thường chuyển động, không liên tục, từ hình ảnh này sang hình ảnh
khác, từ chối tuân thủ các cách tiếp cận truyền thống về ý nghĩa.
Thơ Ashbery và ảnh hưởng
của nó đối với các nhà thơ trẻ vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi chỉ vì sự chia rẽ
này trong quan điểm phê bình: một số nhà phê bình ca ngợi là "khả năng của
Ashbery trong việc làm suy yếu những điều chắc chắn của chúng ta, nói rõ và đầy
đủ những vùng mơ hồ trong ý thức của chúng ta” (Paul Auster).
Chính Ashbery từng nói: “Tôi
cũng khá bối rối trước tác phẩm của mình, cùng với rất nhiều người khác. Tôi
luôn bị hấp dẫn bởi nó, nhưng đồng thời cũng có chút e ngại và hơi xấu hổ khi
làm phiền chính những nhà phê bình luôn khó chịu vì công việc của tôi. Tôi rất
tiếc vì tôi đã gây ra quá nhiều đau buồn”.
Helen Vendler đã tóm tắt
ý kiến của mình về cuộc tranh luận trên tờ New Yorker: “Chính phong cách của
Ashbery đã ám ảnh những người đánh giá, khi họ lần lượt vật lộn với tính chất khó
nắm bắt của nó và ca ngợi sức mạnh tổng hợp ngôn ngữ của nó... Nhưng người ta
tin rằng, với một số lý do, rằng bản thân phong cách đó là bất khả xâm phạm… Một
quan điểm khác nói rằng mọi bài thơ của Ashbery đều là về thơ ”.
Các tác phẩm sau này của
Ashbery như Girls on the Run – Những cô
gái trên đường đua (1999), Chinese Whispers – Lời thì thầm Trung Hoa (2002),
Where Shall I Wander?- Chúng ta sẽ lang
thang chốn nào (2005), A Worldly
Country - Một đất nước phàm trần (2007), Quick Question – Hỏi nhanh (2012), Breezeway – Nẻo đường kết nối (2015), và Commotion of the Birds – Sự rung động của những chú chim (2016),
các nhà phê bình đã ghi nhận một làn sóng cao trào khi nhà thơ chiêm nghiệm về
sự già đi và cái chết.
Mark Ford, cũng viết trên
tờ Times Literary Supplement, đã so sánh thơ của Ashbery với Walt Whitman ở điểm
cơ bản là sử dụng phương tiện để lôi kéo người đọc trong cái mà Whitman gọi là “các
điều khoản bình đẳng” (equal terms).
Thơ của Ashbery hấp dẫn
không phải vì nó mang lại sự khôn ngoan mà bởi vì sự khó nắm bắt và lời hứa bí ẩn
trong những dòng chữ của anh ấy nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta luôn có một
tương lai và một điều kiện có ý nghĩa để bắt đầu hướng ngoại”. Năm 2008, Thư viện
Hoa Kỳ đã xuất bản John Ashbery:
Collected Poems, 1956-1987, đây là tuyển tập đầu tiên của một nhà thơ còn sống
được xuất bản.
Những bài Phê bình nghệ
thuật của Ashbery được thu thập trong Reported
Sightings: Art Chronicles, 1957-1987 – Trình bày những quan điểm: Biên niên sử
nghệ thuật 1957-1987 (xb năm1989). Loạt bài giảng của Norton về sáu nhà thơ
có lẽ đã ảnh hưởng đến tác phẩm của chính ông, bao gồm John Clare, Raymond
Roussel và Laura Riding được xuất bản với tựa Other Traditions: The Charles Eliot Norton Lectures - Những truyền thống khác: Những bài giảng của
Charles Eliot Norton (2000). Ông cũng từng là hiệu trưởng của Học viện Nhà
thơ Hoa Kỳ (Chancellor of the Academy of American Poets), và giảng dạy ở cấp
đại học trong nhiều năm, bao gồm cả tại Cao đẳng Brooklyn, Đại học Harvard và
Cao đẳng Bard.
Được coi là ứng cử viên
hàng đầu của Hoa Kỳ cho Giải Nobel Văn học trong nhiều năm, nhưng ông chưa bao
giờ được trao tặng danh hiệu này. Ông qua đời tại nhà riêng ở Hudson, New York,
vào năm 2017.
* Mộc Nhân dịch từ nguồn: poetryfoundation & tham khảo: Wikipedia
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét