Bài đã đăng trên Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội số 995+996 / cuối tháng 8 _ đầu tháng 9/ 2022. Xin cảm ơn Tạp chí đã sử dụng bài viết như sự ghi nhận một gương mặt thơ ca Xứ Quảng vừa giã biệt cõi văn chương. (Nguồn VNQĐ).
Lê Đức Thịnh
Từ khi chập chững viết
thơ, tôi đã cảm thấy mắc nợ Nguyễn Giúp. Thỉnh thoảng anh chuyển cho tôi
mấy bài thơ tâm đắc sắp gửi đăng hoặc dự thi đâu đó kèm theo lời
dặn: “Chỉ mỗi em đọc và dò giúp anh thôi nhé, đừng đưa người khác xem,
đừng post lên blog…” Có người anh coi mình là bạn đọc tin cậy để chia sẻ tác
phẩm là quý lắm rồi. Thế là luôn được đọc bài mới của anh và lục tìm đọc những
bài thơ của anh trên các trang mạng. Dường như thơ anh đem đến cho tôi những
xúc cảm mới mẻ, khác lạ dù đôi khi “chẳng hiểu gì” và điều xác tín là nó gợi
hứng để tôi khởi sự làm vài bài thơ đầu tiên của mình.
Từ thơ tình, thơ rượu,
thơ ngông mà anh đọc trong các cuộc “trà dư tửu hậu”, cứ thế, Nguyễn Giúp đều
đặn, lừng lững, thận trọng những bước dài trong hành trình thơ ca mà vẫn dung
dị như sông suối, đất đai và tâm hồn, tính cách anh.
Có người đã nói không
quá, rằng thơ đất Quảng đương đại khá phong phú, dữ dằn, cá tính, hãnh diện
cùng các nỗ lực đổi mới…, và Nguyễn Giúp là một trong số cái tên để lại những
dấu ấn trong bạn đọc và bạn thơ. Từ Gió từ sông thổi lên (2017) đến
Thiên nga bay đi (2020) và mới nhất là Sóng Thu Bồn (2021),
anh đã định hình cho mình một phong cách thơ.
Tôi chép lại câu ấy bằng
sự quan tâm đến tác giả ở cấp độ thi pháp thời gian, không gian, ngôn ngữ. Đây
là một câu chuyện chuyên môn thuộc tầm… hội thảo. Còn tôi tiếp cận thơ Nguyễn
Giúp trong tiến trình chuyển động của thi ca mà tôi đọc và học từ anh để có thể
hình dung phần nào diện mạo thơ của người thơ thụ hưởng phù sa từ lưu vực hai
con sông lớn của quê nhà: Thu Bồn và Vu Gia.
Điều rõ ràng là sinh
quyển thơ Nguyễn Giúp chất chứa những kí ức rất thực, những ám ảnh khôn nguôi,
những trải nghiệm tiếp nối nhau mà khi anh viết ra có thể chạm đến tâm cảm
người đọc. Đó là không gian của làng quê, nơi anh đã từng sống, gắn bó với hình
ảnh gần gũi của con sông, xóm làng, tiếng chim, vườn cây: Qua sông là tới
làng/ Ừ thì qua sông/ Cổng làng ưỡn ngực khoe những tam cấp/ Rồi sẽ tiếng chim
chuyền cành/ Vườn nhà thanh bình đến ngờ vực (Đại Bường); là ánh trăng
khuya khắc khoải: Tiếng chuông thả vào đêm/ Gió lay cành mục/ Trăng khuya
một áng/ Khắc khoải bốn bề sương giăng (Tiếng chuông)… Nơi ấy
Nguyễn Giúp chia sẻ kí ức hồn hậu, đau đáu của mình qua từng câu chữ: Em
mang nỗi buồn sang nhà tôi/ Cỏ xanh bên thềm chiều mỏng dính (Cỏ); Ngày
em theo sông mới hay sông chảy ngược/ Có tiếng gà bên kia đồi đứng bóng (Ngõ
xưa)…
Làng quê trong thơ
Nguyễn Giúp thường gắn với địa danh cụ thể: Quảng Nam, Mỹ Sơn, Đại Bường, Gò
Nổi, Vu Gia, Thu Bồn, Ly Ly, Ái Nghĩa, Ngọc Linh, Hòn Kẽm, Đá Dừng… nên bạn đọc
dễ nhận ra cái hồn quê cốt xứ thanh bình, dung dị: Những thân lúa, thân bắp
xanh từ đất đai/ Những hạt sương tinh khiết từng giọt mà thành ban mai/ Những
phù sa vùi lấp đời mình mà thành bãi bờ điền địa (Gò Nổi). Không gian
làng quê ấy không chỉ có tạo vật mà còn có sự hóa thân của hồn người, tình
người với hình bóng của danh nhân lịch sử: Hoàng Diệu, Phạm Phú Thứ, Phan Khôi;
có khi con người hóa thân vào quê hương, là một phần của hồn quê: Ra đi
rồi quay về sững sờ gặp người lùa bò ngang qua đường/ Là lúc Mỹ Sơn im như
gạch/ Những bóng ma Hời canh giữ Sambhuvarman/ Chiều Chiêm Sơn bềnh bồng tơ lụa
giăng/ Gái quê buông câu hò thổn thức/ Thanh Chiêm mờ thủ phủ/ Đêm nay nguyệt
thực người đòi chết/ Ta sợ linh hồn không lối ra (Sóng Thu Bồn). Thế giới
tình tứ, xôn xao ánh sáng và lung linh sắc màu được chạm khắc khá nổi nét
và cụ thể trên cái nền mờ ảo làm cho các phối cảnh thêm mông lung mà sống
động. Thế giới ấy ẩn chứa bao nhân vật trữ tình thân thiết như người cha lật đất, bóng mẹ xanh trời, chị xắn quần lội ruộng, người em đôi mắt ngọt ngào và xanh hơn trời cao cùng những câu chuyện
tưởng đã phôi phai mà thành ám ảnh: Đôi mắt em hoang dại/ Tan loãng/ Vào cơn
mưa núi (Bon).
Điều thú vị là trong cái
không gian thi ca đó luôn có những âm thanh vang vọng để con người nhận ra nỗi
niềm của mình và mở ra chiều kích rộng hơn như là quê xứ của tất cả chúng ta.
Sự gợi mở đó đôi khi là tiếng chuông, tiếng mõ: Tiếng mõ giục câu kinh lơi
chuông điểm/ Trôi đâu một giấc mộng tàn/ Men rượu cháy lòng câu thơ bung
ngày mới/ Lẽ nào vô tích lẽ nào vườn khuya/ Lẽ nào em tay phủi/ Ta từ cuộc
phong trần ngồi mặc niệm tiếng chuông? (Tiếng chuông); hoặc chỉ là tiếng thằn lằn
nằm phơi mái ngói gợi buồn vui lòng người: Tháng ba người không về/ Con thằn
lằn nằm phơi mái ngói/ Buồn vui tắc lưỡi chờ/ Câu hát mài mòn đêm cũ/ Ru người
tìm nỗi đau ta/ Áo xưa lãng quên cành súng (Tiếng chim rừng cũ); hoặc trần trụi đời
thường mà vẫn gợi bao nỗi niềm: Buổi chiều nghe tiếng con heo kêu/ Ban mai
nghe tiếng con gà gáy/ Giục lòng cái ăn cái mặc/ Trái bắp củ khoai thẳng mặt
một lời (Gò Nổi)...
Tôi đọc nhiều lần Ville của Nguyễn Giúp và dường như trong
khoảng lắng đọng của một người đọc, bài thơ đã kích hoạt những âm thanh gần gũi
mênh mang bình yên cố xứ làm nổ bung trầm tưởng về bản quán thành chuỗi âm hình
ám ảnh: Đêm đêm thuyền chài gõ nhịp…/ Sông cũng phong phanh như người
nằm nghe tiếng chuông nhà thờ đổ…/ Tiếng chim sáo ri ri trên tầng cao hoa gạo
đỏ…/ Nơi đầu mối lao xao tiếng người mua bán…/ Trên đỉnh nhà chấp chới tiếng
chim bắt cô trói cột lạc bầy…
Không gian thi ca Nguyễn
Giúp có cái man mác của tình yêu thăng hoa: Quay lại với tháng mười bài thơ cho
em/ Góc phố đã lên sàn mùa đông trứng nước/ Thai nghén những sợi tơ trời hình
lông ngỗng bay vào giấc mơ truyền thuyết/ Vó ngựa khua cung bậc tình yêu lên
chín tầng hiện hữu/ Em đã về chưa/ Bài tháng mười cho em là nụ hôn đầu đời cùng
kiệt vượt ngưỡng đau cơ bắp/ Anh cược linh hồn mình vào đây cho vòng tròn con
chữ chạy quanh (Bài tháng mười cho em). Nó cũng có cái ưu tư trong men
rượu về một giấc mộng tàn mà lòng vẫn còn chập choạng: Buổi ấy có
gã say thơ mượn đôi lúm đồng tiền em chưa trả/ Buổi ấy lũ chuồn chuồn trốn mưa
không dự báo một ngày nắng vừa để em đi về đâu đó/ Trên những quả đồi ánh mắt
em ngời réo/ Chập choạng giấc mơ (Lang thang những ngọn gió trên đồi).
Trong mọi chiều kích không gian thi ca, Nguyễn Giúp luôn viết bằng ý thức sáng
suốt cùng sự mê say chắt lọc con chữ để tái hiện hồi ức. Những chiều kích ấy là
những xúc cảm không cùng, ẩn chứa cái sống tận độ: Hoàng hôn chưng cất mình
thành những ráng đỏ/ Cánh hoa trên đồi nhật thực/ Mùa xuân hồng phía đỉnh cao/
Anh chèo thuyền lên nương/ Nguyệt lộng/…/ Giấc mơ bao la hơn bầu trời nhưng
giấc mơ không sóng sánh bằng đôi mắt em (Trong đôi mắt em có giấc mơ của
núi). Thơ Nguyễn Giúp có độ nén của ngôn ngữ dù đôi khi những câu thơ văn xuôi
kéo dài nhịp xúc cảm hoặc ngắt nhịp rơi dòng kiểu thi pháp hiện đại.
Rốt lại, dù là viết gì
đi chăng nữa thì hình ảnh quê xứ trong thơ Nguyễn Giúp vẫn mãi là một phối cảm
giữa lãng mạn và hiện thực với các vỉa chữ lèn chặt trong hồi tưởng từ quá khứ
đến hiện tại - hiển lộ mà khó khai quật. Nơi ấy đất và người giao thoa, tựa gửi
linh hồn vào nhau trong cái đẹp. Tôi ngắm nhìn để thấy tràn trụa sắc màu lập
thể, rợn ngợp hình ảnh mông lung hanh hao, chộn rộn âm thanh và nghẹn ngào nỗi
buồn lặn sâu vào ngăn hồn của người hành hương ngay trên mảnh đất thiêng của mình.
Chúng đan quyện với nhau nửa thực nửa ảo, nửa lang bạt kì hồ nửa chuẩn mực chỉn
chu, nửa muốn rong ruổi nửa muốn quyến luyến khôn nguôi đành trở về: Quê đã
chạm vào tôi những mặt người hồn nhiên/ Rồi những ngôi mộ dấy lên trên đồi tha
ma cũ/ Hương khói bay hay mưa giăng ngày đông chí/ Như thênh thang những linh
hồn từ cây cỏ đứng lên (Ville).
Nguyễn Giúp tạo ra các
thi ảnh thực và siêu thực, gần gũi và lạ lẫm, hồn hậu và bạo liệt, phát lộ và
vùi trong trầm tích… Cũng chính nhờ các phổ/ tần số thi ca ấy, thơ anh có thể tiếp
cận mọi biên độ/ sở tri của bạn đọc. Tuy nhiên những điều ấy không tách
bạch trong từng bài mà hòa quyện với nhau trong các thi liệu bản địa (địa danh,
thổ nhưỡng, đặc sản, bản sắc, văn hóa, lịch sử…) Ở tầm khái quát hơn, đó là ảnh
xạ quê hương đất nước cùng chiều sâu cõi sống của đồng bào.
Người thơ xứ Quảng viết
tựa phù thủy ngôn ngữ đang say cơn phù phép, bốc những chữ đắt nhất từ
trong túi thổi ra thành lửa và gió. Anh viết như người nghệ sĩ đang sống
trong tận cùng khoảnh khắc của mình. Anh viết như là lí do hiện hữu, hồn nhiên,
thúc đẩy sự tồn tại của tâm hồn. Anh viết trong cồn cào quẫy đạp từ hoài niệm
và đời sống nhưng lại đạt đến thăng bằng của lí tính và xúc cảm. Anh viết mà
như đối thoại giữa các đối cực nhị nguyên mang theo hình thái của tâm hồn, chất
chứa đời sống, trĩu nặng chất vấn suy tư.
Giờ đây tất cả vừa lặng
vào đất đai vừa dằng dai vang vọng. Trong đêm thơ tiễn biệt Nguyễn Giúp (2/8/2022), nhà thơ Phùng Tấn Đông
tôn vinh: “Anh ra đi trong vinh dự với dáng vóc uy nghi của một thi sĩ”; nhà
văn Phan Chín nhấn mạnh: “Thơ ca của anh sẽ mãi được mãi lưu giữ trên Đất
Quảng và trong lòng bạn thơ, bạn đọc.” Gia đình anh, trong giờ khắc tiếc
thương xúc động trào dâng tận cùng, nói lời tự hào về anh, bởi "dưới thảm
mục những linh hồn mở ra loài thủy chung” - như câu thơ anh viết trong bài Cho
em và hoa cúc...
L.Đ.T
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét