Một bài viết hay của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Xanh, rất nên đọc và chia sẻ
* TS Nguyễn Xuân Xanh tốt nghiệp Đại Học Khoa Học Sài Gòn, du học năm 1966 tại CHLB Đức. Ông học tập và nghiên cứu tại các Đại học Bonn, Heidelberg, Bielefeld và Berlin. Năm 1975, ông tốt nghiệp Tiến sĩ Toán và làm Habilitation năm 1983. Từ năm 1980 – 1986, ông làm nghiên cứu và dạy học tại Đại học Bielefeld và Đại học kỹ thuật Berlin trước khi về nước sống từ mười mấy năm nay. Ông đã viết hoặc là chủ biên của những cuốn sách nghiên cứu về lịch sử khoa học giáo dục như "Nước Đức thế kỷ 19 - những thành tựu khoa học và kỹ thuật", "Einstein", "Kỷ yếu đại học Humboldt"...
“Bởi vì
tất cả những gì vĩ đại và cao cả đều được tạo ra bởi cá nhân trong sự phấn đấu
tự do. […] Có thể dễ dàng nhận thấy rằng tất cả những tài sản vật chất, tinh
thần và đạo đức mà chúng ta nhận được từ xã hội xuất phát từ những nhân cách
đơn lẻ qua vô số thế hệ. […] Chỉ cá nhân đơn lẻ mới tư duy và qua đó mới tạo ra
những giá trị mới cho xã hội”. (Albert Einstein)
Thời
đại réo gọi “nhân cách”, nhưng sự réo gọi hoài công, cho đến khi chúng ta để
cho trẻ em như những nhân cách sống và học; cho phép chúng có ý muốn riêng,
nghĩ những ý nghĩ riêng, tạo ra kiến thức riêng, xây dựng phán đoán riêng; nói
tóm lại, cho đến khi chúng ta chấm dứt bóp chết các nguyên liệu của nhân cách
mà chúng ta hy vọng muốn gặp trong đời một cách hoài công.
Nhân
cách, ở diện rộng, là nền tảng của mọi quốc gia, và giáo dục là chiếc lăng kính
tỏa ra nhiều màu sắc của nhân cách. Không có nhân cách, không có khoa học, nghệ
thuật. Giá trị của nhà nước, xét lâu dài, là giá trị của các cá nhân cấu thành,
như John Stuart Mill viết. Muốn có một đất nước mạnh, độc lập, tự khẳng định,
phải có những cá nhân mạnh, độc lập và tự khẳng định, thông qua sự tự rèn luyện
trong giáo dục. Đó là điều kiện tiên quyết. Một quốc gia được đại diện trong
cộng đồng thế giới bằng những ai? Bằng những nhân cách lớn và những tài sản
tinh thần của họ. Không có những nhân cách lớn, không thể có nhà nước lớn,
không có diện mạo tốt đẹp của quốc gia để được kính phục trong cộng đồng các
dân tộc. Einstein cũng từng nói: “Sự lớn lao trong khoa học thực chất chỉ là
một vấn đề cá tính (character)”, của nhân cách, của những cái đặc thù tiềm tàng
trong người không giống đám đông, để có thể đạt tới những thành tựu vĩ đại.
Nhân cách, tính độc lập, là điều kiện tiên quyết của phát triển cá nhân và quốc
gia.
Nước
Đức thế kỷ 19, trong niềm đau tận cùng của sự sụp đổ trước Napoleon, đã cải
cách toàn diện giáo dục, từ tiểu học, trung học đến đại học, để khôi phục giá
trị con người đã bị đánh mất dưới chế độ phong kiến, quân chủ, và bị bỏ quên
trong nền kinh tế lạc hậu. Họ tìm lại những nhân cách lớn, và những giá trị lớn
của tinh thần để bù đắp những tổn thất lớn vật chất. Và thực sự họ đã lớn trong
cái “giáo dục con người”, Menschenbildung.
Nước
Nhật Minh Trị cũng đã du nhập tinh hoa của văn hóa phương Tây để xây dựng lại
con người mới, bị kềm hãm bởi cái học cũ chỉ để phục vụ cho giới thống trị, xây
dựng lại nhân cách và một nền văn hóa mới để quốc gia có đủ sức mạnh đương đầu
với hiểm họa. Khuyến học, tên của quyển sách nổi tiếng của Fukuzawa, là tiếng
kèn ra trận của sự duy tân nhằm thiết lập cái học mới phục vụ nhân dân và xã
hội. Và dân tộc họ đã lớn, đã trưởng thành, ngang bằng với các dân tộc đi
trước.
Giáo
dục cần tập cho học sinh có tinh thần tự-quyết (Selbstbestimmung), chứ không
phải chỉ thích ứng, chạy theo, biết từ chối chạy theo những lợi ích trước mắt,
mà phải được đánh thức tinh thần bên trong. Giáo dục nhân cách là giáo dục để
thành người đích thực, đương đầu trước những cám dỗ tầm thường hóa của tính
thực dụng, hưởng thụ, phúc lợi, sung sướng về vật chất trước mắt. Chúng ta hãy
lấy thí dụ một tiếng nói nhân văn từ Max Planck mà khám phá lượng tử của ông đã
đưa khoa học hiện đại thế kỷ 20 đến thuyết lượng tử ngày nay. Ông nhớ lại
trường học nhân văn của ông bằng những lời ấn tượng có tính giáo dục như sau:
“Tôi chào định mệnh đã cho tôi một nền giáo dục nhân văn. Các nhà cổ điển Hy
Lạp và La Mã (là những hình ảnh) tôi không bao giờ muốn đánh mất khỏi trí nhớ
tôi. Tôi tin chắc rằng, trong thời đại hiện tại, chủ yếu được định hướng theo
những lợi ích bề ngoài, thì trường trung học nhân văn lại càng quan trọng hơn
bao giờ hết. Vì thế cần phải cho tuổi trẻ biết rằng còn một loại ‘thưởng thức’
khác hơn là loại thưởng thức chỉ dựa trên lĩnh vực vật chất hay tiết kiệm thì
giờ và tiền bạc”. (Max Planck)
Đó là
giáo dục nhân văn của Wilhelm von Humboldt, nhà cải cách giáo dục vĩ đại của
Đức thế kỷ 20. Một người hạnh phúc, thỏa mãn, sẽ quá hài lòng với hiện tại để
nghĩ nhiều về tương lai, như Einstein nói, người đó sẽ dễ rơi vào “bẫy phát
triển trung bình” và ngưng trệ, không vượt lên cao hơn, tương xứng với tiềm
năng của mình. Khoa học và nghệ thuật cần những nhân cách để xuất sắc. Học sinh
cần có trải nghiệm với các nhân cách lớn thế giới để học hỏi, và hiểu những
tiềm năng của chính mình.
Giáo
dục cần phải dạy cho học sinh biết mơ. “Cần phải mơ tưởng (ngay cả) điều không
có thể, để thực hiện tất cả những gì có thể” như Goethe nói. Một giấc mơ, một
lý tưởng sẽ luôn luôn là động cơ để con người đi tới những đích xa. Thiếu những
thứ đó, con người như không có phương hướng, thiếu cái la bàn, và động cơ. Có
chỉ số IQ cao, nhưng khoan hãy tự hào, vì người sở hữu có thể phung phí, để trí
thông minh của mình mai một, hay rơi vào những cái bẫy tầm thường. Nhà bác học
Einstein không bao giờ nói ông thông minh. Nhà phát minh Edison cũng nói mình
không thông minh. Chỉ có óc tò mò đặc biệt và kiên trì theo đuổi, “vừng ơi mở
cửa” mới thành công.
Giáo
dục cần phải giúp con người khao khát khám phá chân lý. Khao khát này luôn luôn
là động cơ phát triển của thế giới phương Tây, từ thời cổ đại Hy Lạp hơn hai
nghìn năm rưỡi trước, bị ngủ đông sau khi đế chế La Mã sụp đổ, nhưng rồi sau
một ngàn năm “đen tối” lại bừng tỉnh, không ngừng phát triển lên những đỉnh cao
của khoa học, văn hóa, tạo ra cách mạng khoa học, cách mạng công nghiệp và khai
sáng, thay đổi bộ mặt thế giới.
Phải
khao khát mãnh liệt lắm để làm con người đi trên những bậc thang tiến hóa ngày
càng cao. Nhà khai minh Đức Gotthold Ephraim Lessing thế kỷ 18 đã nói lên niềm
khao khát cháy bỏng tự đi tìm chân lý bằng hình tượng, không chịu “giao phó”
việc đi tìm chân lý cho các quyền lực ở trên, dù đáng ngưỡng mộ, một các dễ
dàng: “Nếu Chúa giữ kín tất cả chân lý trong tay phải của Ngài, và trong tay
trái chỉ có một thứ là động cơ đi tìm chân lý, sống động, và không bao giờ tắt,
dù có kèm theo điều kiện rằng tôi luôn luôn và mãi mãi có thể bị sai lạc,… và
rồi bảo hãy chọn lựa đi, thì với sự khiêm cung tôi sẽ ngã vào tay trái của Ngài
và nói rằng: Hãy cho con tay này! Chân lý hoàn hảo chỉ dành cho Cha!”.
Hay nói
như Abraham Lincoln, vị tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ: “Thiên tài cao ngất xem
thường lối mòn đã đi. Họ tìm những vùng đất chưa bao giờ khai phá. Họ không tìm
sự khác biệt trong việc thêm bớt một hai chi tiết ở những tượng đài của sự nổi
tiếng được dựng lên trong ký ức của những người khác. […] Họ ghét bước theo dấu
chân của bất cứ ai khác, dù nổi tiếng đến đâu. Họ khao khát cháy bỏng sự khác
biệt”.
Các
chân lý nếu không do tự mình khám phá, chưa chắc có giá trị là chân lý của
mình. Đúng như thế đối với một thời đại, một quốc gia, và một con người. Chân
lý hôm nay có thể là gánh nặng cho ngày mai. Nhưng ngọn đuốc đi tìm chân lý
không bao giờ tắt, và sẽ đưa những người tìm đến bến bờ, hết lớp này đến lớp
khác, trong quá trình hoàn thiện không ngừng của nhân loại. “Những đứa trẻ,
người trẻ, nếu họ đi nhầm trên con đường của chính họ, đối với tôi vẫn hơn
những người đi đúng nhưng trên con đường xa lạ (không phải của họ)” như Goethe
nói. Phải tìm được con đường, bản gốc của mình, không chạy theo mà không biết
mình đi đâu.
Nhưng
muốn có giáo dục nhân cách, trước nhất cần phải dẹp bỏ những điều kiện có thể
làm giảm nhân cách người thầy, hoặc ngăn chặn sự phát triển lành mạnh của họ.
Điều đó bao hàm giải phóng thầy cô khỏi những sợi dây ràng buộc sinh nhai, trói
buộc hành chánh, để họ có đầy đủ tự do để nghiên cứu và trao dồi nghiệp, để trở
thành những tấm gương nhân cách sáng chói hơn. Muốn có giáo dục nhân cách, phải
bảo đảm để những nhà giáo sống trong nhân phẩm. Người thầy trước nhất họ phải
có không gian tự chủ để thể hiện tính cách và nghệ thuật giáo dục của họ, với
sắc thái riêng, không bị ràng buộc vào những quy định cứng nhắc. Trước đôi mắt
của học sinh và dư luận xã hội, người thầy là những người mang sứ mệnh cao cả
đào tạo những con người có nhân cách và bản lĩnh cho quốc gia, thì họ không thể
bị hạ thấp bởi cuộc sống bẩn chật.
Không
quốc gia truyền thống nào trên thế giới, kể cả Miền Nam Việt Nam trước đây,
nghèo hay giàu, có ngày vinh danh nhà giáo. Nhưng xã hội họ rất vinh danh nhà
giáo. Sự vinh danh ấy nằm trong sự bảo đảm đời sống gia đình và con cái họ đàng
hoàng, giải phóng họ khỏi những lo toan vật chất, tạo điều kiện trao dồi nghiệp
vụ cho họ, và trong sự kính trọng cao độ mỗi khi nghe nói đến hai chữ “nhà
giáo”. Hai chữ đó thiêng liêng, tượng trưng sứ mệnh cao cả khai trí trong người
thầy như một trọng trách của xã hội và nhân dân giao phó. Không thể nào vinh
danh nhà giáo mà lại để nhà giáo không đủ sống để họ phải kiếm sống ngoài giờ,
gây ảnh hưởng không tốt đến giáo dục. Không thể nào nhà giáo là những người đào
tạo các thế hệ con người cho quốc gia, làm ra sản phẩm, đem lại sự sung túc cho
xã hội, mà lại thuộc tầng lớp nghèo khó.
Thứ
hai, cần trả tự do cho giáo dục, cho người thầy. Sự can thiệp quá sâu của nhà nước,
chỉ gây thêm tác hại cho giáo dục. Lịch sử của các quốc gia phát triển là lịch
sử của sự độc lập của giáo dục đối với tôn giáo và nhà nước. Điều này đã diễn
ra hơn 200 năm.
Các mâu
thuẫn hiện nay thể hiện một sự khủng hoảng nghiêm trọng của giáo dục Việt Nam,
không phải về năng lực tài chính, hay quản lý, mà về quan điểm. Chấm dứt khủng
hoảng này, cây giáo dục mới xanh tươi trở lại, vị trí của người thầy mới được
khôi phục trọn vẹn và giáo dục mới thăng hoa. Giáo dục quốc gia là một thánh
đường, mà thầy cô là những người gìn giữ. Hãy có cách đối xử tốt hơn với thánh
đường, và những người chăm sóc nó.
Vài
điều muốn được chia sẻ với các bạn học trò: Người thầy nắm tay dìu dắt chúng ta
đi một đoạn đường, tạo một căn bản kiến thức và khẩu vị nhân cách, gợi một số
định hướng tương lai, nhưng phải buông tay để chúng ta tự bước vào “biển đời”.
Còn lại là ấn tượng về những tấm gương của người thầy, và sự đọng lại của tinh
túy giáo dục khi chúng ta quên đi những gì đã học. Các năm đại học mở thêm một
chân trời rộng lớn cho khoa học và nghệ thuật, những bậc thang cao hơn để tự
chọn. Nhưng trong cái biển mênh mông của tri thức đó, ta là ai, con đường của
ta là gì, cái gì phù hợp với trái tim ta. Không ít những người đi lạc đường, vì
những đam mê nhất thời, dừng chân tại một bến đỗ quá lâu, vì ảo vọng, mà quên
đi những cái đích xa hơn cần phải đến. Có những người phải mất mấy mươi năm mới
trở lại con người thật của mình, tự vật lộn để xây dựng lại thế giới của mình.
Con người “phải là gì mới làm được cái gì”, như đại văn hào Goethe nói. Phải là
cái gì, “cái gì khác biệt”, thể hiện qua nhân cách, tri thức và đức hạnh, thì
chúng ta mới có những đóng góp quý báu diện rộng cho xã hội. Mỗi người chúng ta
sinh ra vốn bị giam trong hang động vô minh của Platon, do đó không có tự do
đích thực. Nhưng chúng ta linh cảm có những lối thoát, và khoa học, lý tính là
những công cụ trí thức đã từng bước chỉ ra lối thoát để hiểu vũ trụ và con
người.
Chỉ có
sự phát triển bằng lao động cực nhọc và thông minh, chúng ta mới đạt đến sự
giải phóng. Nhà văn Đức Peter Weiss, người rất yêu mến dân tộc Việt Nam trong
giai đoạn khó khăn nhất, từng nói về mình: “Tự tôi, tôi không tự do, lao động
của tôi là nỗ lực để giải phóng”. Nó minh họa cho quá trình tìm lại ông. Chính
xác. Ông lao động cực lực, làm nhiều nghề, từ vẽ, nghệ thuật, làm phim, rồi đến
viết lách, trải qua bao nhiêu giai đoạn khó khăn của cuộc sống, để cuối cùng
giải phóng được mình khỏi vô minh để trở thành một ngọn đuốc sáng rực, bằng cây
bút. Van Gogh cũng thế, bằng cọ vẽ. Những trải nghiệm thất bại không phải là vô
bổ, mà là những bậc thang vững chắc để nâng cao giai điệu giao hưởng cuối cùng
vĩ đại. Lessing tin rằng, trong sự phát triển của con người, “con đường ngắn
nhất không phải luôn luôn là đường thẳng”, nhưng cũng tin rằng, từ “tất cả
những con đường sai lầm, người ta vẫn hình dung ra con đường đúng hướng về
đâu”. Đó là niềm lạc quan của khai sáng thế kỷ 18.
Con
người cần hai khoảng không gian tự do để phát triển nhân cách: tự do thứ nhất
do sự không can thiệp từ ngoài vào đời sống giáo dục; tự do thứ hai là khoảng
không nội tâm bên trong mà các nhà văn hóa Đức gọi là “vương quốc nội tâm”
(inneres Reich), Einstein gọi là “tự do nội tâm” (innere Freiheit). “Tự do nội
tâm này là món quà hiếm có của thiên nhiên ban cho, và là một mục tiêu đáng giá
cho cá nhân”. Chính khoảng không gian này là miếng đất màu mỡ chứa đựng và nuôi
dưỡng những hạt giống sáng tạo. Nó giống như khoảng không của thiền, suối nguồn
của năng lượng sáng tạo. Đó là miếng đất mọi nhà khoa học và nghệ thuật lao động,
ý thức hay không ý thức. Không có tự do nội tâm này, con người sẽ cằn cỗi, dễ
bị đồng hóa với đám đông, và cuộc sống ồn ào thường nhật.
Người
Đức tự hào: “Vương quốc nội tâm kia mà nền triết học của chủ nghĩa duy tâm Đức
cũng như nền văn chương của trường phái cổ điển Weimar đã xây dựng, đã đi trước
sự thành lập vương quốc chính trị (của Đức) hơn một trăm năm”. (Wolf Lepenies)
Nói tóm
lại, muốn có quốc gia giàu mạnh, xã hội cần có nhiều nhân cách phát triển trong
một môi trường tự do, trong nội tâm lẫn từ ngoại cảnh, như nhà cải cách giáo
dục Wilhelm von Humboldt quan niệm. Một xã hội “sản xuất hàng loạt những cá
nhân được tiêu chuẩn hóa không có sắc thái và mục tiêu riêng lẻ sẽ là một xã
hội nghèo nàn mất khả năng phát triển”, như Einstein cảnh báo.
Cuối
hết, xin được chia sẻ với độc giả một sự kiện đáng nhớ. Albert Camus, nhà văn
lớn Pháp thế kỷ 20, sau khi nhận được giải Nobel văn chương năm 1957, viết ngay
một lá thư cảm ơn gửi đến người thầy đầu tiên của mình, thầy của trường tiểu
học ở Belcourt, một khu phố nghèo thành phố Algiers mà Camus đã lớn lên cùng
với các gia đình di cư Pháp. Ảnh hưởng quyết định và lâu dài lên ông là người
thầy ở đó, như ông viết trong tự thuật, đã biết tạo ra ý thức về nhân cách cho
ông và các bạn học. Với người thầy, đám học trò lần đầu tiên cảm thấy “chúng
tồn tại, và là đối tượng của sự kính trọng cao nhất… chúng có đầy đủ nhân phẩm,
xứng đáng để khám phá thế giới”. Camus nói đến hai chữ “kính trọng”, và “nhân
phẩm” từ một đứa trẻ đường phố vô danh và không nguồn gốc. Đó chính là trải
nghiệm quyết định của thời học sinh đã tạo cho ông ý chí học hỏi và ý thức về
mình. Ông cho thấy tác động của giáo dục tôn trọng nhân cách là sâu sắc đến
dường nào, đáng để các nhà giáo dục lẫn các bậc phụ huynh phải suy ngẫm. Không
phải chỉ giáo dục trường học, hay gia đình làm mất hay giảm đi cảm nhận nhân
cách của người trẻ, mà còn cả quyền lực phong kiến tồn tại ở nhiều dạng trong
xã hội. Nhà nước là những nhà “thiết kế” công dân theo nghĩa rộng. Con người
phần phải được truyền cảm hứng rằng họ là những nhân cách, những “men of
honor”, thì mới phát triển thành những nhân cách tốt, có đầy đủ lòng tự trọng,
biết xem trọng phẩm giá của chính mình, và phẩm giá của người đồng loại.
* Nguồn: https://rosetta.vn/nguyenxuanxanh/giao-duc-nhan-cach/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét