8/8/19

1.514. TÁN CHUYỆN NỤ CƯỜI


           Mộc Nhân
Khuôn mặt điêu ngoa mà gắn nụ cười vô môi dù có tươi kiểu gì thì người ta vẫn nhận ra vẻ giả dối: “Màu son môi bỗng nhụa nhầy/ Từ trong tròng mắt Vũng lầy trêu ngươi/ Em còn treo một cái cười/ Ta nghe như tiếng đười ươi rừng già” (thơ MN)



            Các nhà nghiên cứu cho rằng cười là một cơ chế được điều khiển từ não bộ, huy động nhiều cơ mặt, cơ bụng có tác dụng với cơ thể giống như động tác thể dục không chỉ cho thể chất mà cả tâm hồn.

Cười là món quà Thượng Đế ban cho nhân loại. Cười là thuộc tính của con người. Nhưng không chỉ con người mới biết cười mà con vật cũng biết "cười".
Học giả Nguyễn văn Vĩnh trong bài “Gì cũng cười” đăng trên Đông Dương tạp chí năm 1913 đã phản ảnh cái “văn hóa cười” của dân ta thế này: “An Nam ta có một thói lạ là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì, mà dở cũng hì; quấy cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng, mọi việc hết nghiêm trang.”
Nụ cười giòn tan đôi khiến lòng người bối rối:
“Trách em chỉ trách nửa lời
Gặp ai cũng biếu vốc cười ngô rang” (Văn Thùy).
Lại có người không biết cách cười nên “Cười như mếu” khiến người đối diện có cảm giác “Dở khóc dở cười”, “Cười ra nước mắt”.
Trẻ con “Cười như nắc nẻ” hàng trăm lần mỗi ngày không cần ai phải chọc cười cả.
Trong khi người lớn chỉ cười có chục lần trong ngày hoặc ít hơn. Còn người lớn thì biết cách kìm chế nụ cười của mình khiến mọi người dường như “Cười không ra tiếng”.

Cái cười trở thành nét văn hóa ứng xử của con người. Ai cũng sở hữu nụ cười nhưng không phải ai cũng biết cười. Nhưng cái gì mà thái quá thì cũng phản văn hóa.
Dân gian có thành ngữ thông tục để diễn tả cái cười : "Cười té đái". Còn nhà văn Nguyễn Quang Lập thì hình tượng hóa cái cười sảng khoái hết cỡ thành kiểu “Cười rung chim”.  Vậy thì khi cười ta không chỉ vận động cơ mặt, cơ hoành mà còn rung cả ... cơ “chim” !!!
Cuộc đời sao có thể thiếu những nụ cười? Các cụ nhà ta đã dạy: “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”. Vậy nên ai không biết cười là tự đầu độc thể xác và tâm hồn mình.
Cái cười trở thành nét văn hóa ứng xử của con người. Ai cũng sở hữu nụ cười nhưng không phải ai cũng biết cười.
Nhưng cái gì mà thái quá hoặc không hợp lúc thì cũng phản văn hóa.
Dù cái cười có che đi nỗi niềm như một phép thắng lợi tinh thần nhưng khi người ta biết tỏng bụng dạ của người ấy thì cái cười kia lại là nguồn cơn tạo ra những tràng “cười vào mũi”. Lúc này tốt nhất là đối tượng nên “khóc thầm” hơn là cười gượng gạo đến mức “Cười hở mười cái răng”.
          “Em cười mỉm miệng xuê xoang
          Hai môi đầy đủ hoàn toàn hàm răng”(Bùi Giáng)
Vậy nên có nhiểu kiểu, nhiều cách, nhiều hàm ẩn trong nụ cười.
Có cái cười bâng quơ :
          “Tôi cười tôi khóc bâng quơ
          Người nghe người khóc có ngờ chi không”.
Có cái cười thâm hiểm của Hoạn Thư :
          “Bề ngoài thơn thớt nói cười
          Mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Có cái cười nghịch cảnh :
          “Cùng trong một tiếng tơ đồng
          Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm” (Nguyễn Du).
Phải chi: “Em đi để lại chuỗi cười/ Trong tôi vỡ một khoảng trời pha lê” (thơ Phạm Công Trứ) thì hay biết mấy.
Tiếc là khuôn mặt điêu ngoa mà gắn nụ cười vô môi dù có tươi kiểu gì thì người ta vẫn nhận ra vẻ giả dối:
“Màu son môi bỗng nhụa nhầy
Từ trong tròng mắt Vũng lầy trêu ngươi
Em còn treo một cái cười
Ta nghe như tiếng đười ươi rừng già” (thơ MN)



Không có nhận xét nào: