11/2/23

2.673. LAMENTATIONS - Louise Glück

  Bài thơ “Lamentations” (Những lời than) trích trong tập “Descending Figure” (The Ecco Press, 1980) của Louise Glück (1). Bài này bao gồm bốn bài thơ trữ tình ngắn viết theo thể thơ tự do. Mỗi bài có tiêu đề riêng: The Logos, Nocturne, The Covenant và The Clearing - các bài riêng lẻ gồm từ ba đến bốn khổ thơ có độ dài ngắn khác nhau.


Nhan đề của bài thơ cho thấy sự thương tiếc về một điều gì đó đã mất mà không thể lấy lại được. Bài thơ lấy cảm hứng từ chuyện tích trong Cựu Ước. Ngoài ra còn có sự tương ứng giữa các tiêu đề với sách phúc âm Tân Ước của Thánh John. Nó gợi lại việc các nhà tiên tri người Hê-bơ-rơ trong Cựu Ước than thở về sự dại dột của con cái Y-sơ-ra-ên và hậu quả là họ bị xa cách Đức Giê-hô-va (2).

  

NHỮNG LỜI THAN

Mộc Nhân dịch từ nguyên tác:

Lamentations - from “Descending Figure” - by Louise Glück (3)


1. The Logos - Những biểu trưng


Cả hai đều im lặng,

người phụ nữ khóc

người đàn ông ôm cô.

 

Chúa đã nhìn thấy

Họ cảm nhận được đôi mắt vàng của người

những bông hoa nổi bật trên bức tranh phong cảnh.

 

Ai mà biết Ngài muốn gì?

Ngài là Chúa, là người khổng lồ

Vì vậy, họ chờ đợi.

Và thế giới tràn ngập ánh hào quang của Ngài,

Dường như Ngài muốn được hiểu.

 

Xa xăm, trong cõi hư vô nơi ngự trị

Ngài quay sang các thiên thần của mình.

 

2. Nocturne - Dạ khúc


Một khu rừng trên địa cầu

Thật đáng thương, nó rất cần tình yêu mãnh liệt của Chúa

Những con thú cùng chung sống

Chúng nằm im trong bóng hoàng hôn lơ đễnh của Ngài

từ những ngọn đồi, bầy sói kéo đến, tự nhiên

thu hút bởi hơi ấm con người

Sự hoảng loạn của họ được các thiên thần nhìn thấy

Ngài đã chia họ ra:

đàn ông, đàn bà và cơ thể đàn bà (*).

Trên ngọn lau, những chiếc lá rơi

một thanh âm khe khẽ của ánh bạc.


 (*). Có thể cụm từ "Cơ thể đàn bà" chỉ sự duy trì nòi giống của phụ nữ, Chúa chia tách họ để tránh rủi ro trước các mối đe dọa chăng. Ý này sẽ được tiếp nối ở đoạn sau "Đứa trẻ sinh ra giữa họ".


3. The CovenantGiao ước


Qua cơn sợ hãi, họ dựng lên một nơi trú ngụ

Rồi một đứa trẻ chào đời trong giấc ngủ giữa họ

Họ cố gắng tự mưu sinh.

 

Họ đặt nó trên một ổ lá

Hình hài nhỏ bé

được bao bọc trong tấm da thú sạch sẽ

Trên bầu trời đen

họ đã nhìn thấy lập ngôn của ánh sáng.

 

Khi đứa trẻ thức giấc. Khi ôm nó trong tay

Người ta hiểu họ là cha mẹ

Nhưng không có quyền hạn nào.

 

4. The Clearing - Vượt qua


Dần dần, trong nhiều năm,

bộ lông biến mất khỏi cơ thể

cho đến khi họ đứng trong ánh sáng rực rỡ

xa lạ với nhau.

Không như trước đây

Tay họ run rẩy, tìm kiếm điều quen thuộc.

 

Họ cũng không thể để mắt đến

da thịt đã lành lặn trên vết thương

rõ ràng như các chữ trên trang giấy

 

Và từ những màu nâu, màu xanh vô nghĩa

cuối cùng Chúa đã sống lại, cái bóng vĩ đại của Ngài

che chở hình hài những đứa con của Ngài đang say ngủ

và đưa lên thiên đường.

 

Thật là đẹp làm sao,

trái đất, lần đầu tiên

nhìn từ không trung.

---------------

Chú thích:

Đây là một bài thơ khó dịch, khó hiểu nhất của Louise Gluck mà tôi đã trải qua. Tôi đã cố gắng truy tìm các nguồn tài liệu liên quan để có những giải mã tối thiểu về nó - nhất là trong chú thích số (2). Nếu có điều chưa hài lòng, mong các nhà nghiên cứu góp ý qua phần bình luận bên dưới. Xin cảm ơn. 

(1). Louise Glück: Đọc lại bài này

(2). Tìm hiểu bài thơ: Như trên đã nói, bài thơ lấy cảm hứng từ chuyện tích trong Cựu Ước, ngoài ra còn có sự tương ứng giữa các tiêu đề với sách phúc âm Tân Ước của Thánh John. Nó gợi lại việc các nhà tiên tri người Hê-bơ-rơ trong Cựu Ước than thở về sự dại dột của con cái Y-sơ-ra-ên và hậu quả là họ bị xa cách Đức Giê-hô-va. Người dịch diễn giải nội dung cơ bản của mỗi phần như sau:

1. Tiêu đề “The Logos” (Những biểu tượng) gợi lại câu chuyện về Chúa Giê-su Christ trong sách phúc âm của John mở đầu bằng câu “In the beginning was the Word” (Khởi thủy là lời)Trong triết học Hy Lạp cổ đại, “The Logos” có nghĩa là nguồn gốc của trật tự thế giới. Tiêu đề “The Logos” của Louise Glück gợi ý một câu chuyện về nguồn gốc vũ trụ và các nhân vật thần thoại lặp lại cả thần thoại Hy Lạp và Cơ đốc giáo. Khổ thơ đầu tiên của bài thơ mô tả những hình tượng nguyên mẫu của một người phụ nữ - được miêu tả là “đáng thương” - và một người đàn ông. Bài thơ này cùng với 3 bài tiếp sau lần lượt gợi lại câu chuyện về Genesis, Vườn Địa Đàng và nguồn gốc của loài người.

2. Tiêu đề "Nocturne": trong gốc La tinh, “nocturne” dùng để chỉ một thể loại âm nhạc lấy cảm hứng về ban đêm, có nhịp độ chậm rãi, giai điệu nhẹ nhàng, mơ màng, u buồn, tiếng Việt dịch là dạ khúc. “Nocturne” trong bài thơ này biểu thị tâm trạng của người nói lúc hoàng hôn và đêm khuya với cảm giác xa cách và sợ hãi. Ở đây, người đọc bắt đầu cảm thấy có sự phân chia ba thực thể riêng biệt, “đàn ông, đàn bà và cơ thể đàn bà”. Kết quả của nỗi sợ hãi này là một nỗ lực nhằm đạt được sự an toàn, sinh tồn trong phần thơ tiếp theo.

3. The "Covenant" có nghĩa là Giao ước. Trong phúc âm, giao ước là một thỏa thuận thiêng liêng hay là lời hứa song phương giữa Thượng Đế và một người hoặc một nhóm người. Khi lập một giao ước, Thượng Đế hứa ban một phước lành cho sự tuân theo các giáo lệnh đặc biệt nào đó. Ngài đặt ra những điều kiện về các giao ước của Ngài, và Ngài mặc khải các điều kiện này cho các vị tiên tri của Ngài biết. Nếu chọn tuân theo các điều kiện của giao ước, thì chúng ta nhận được các phước lành đã hứa. Nếu chúng ta không tuân theo, thì Ngài giữ lại các phước lành và trong một vài đôi khi hình phạt cũng được đưa ra. Bài thơ “Covenant” tiếp nối  với “Nocturne” - sau nỗi sợ hãi, con người đã dựng một nơi trú ngụ và rồi đứa trẻ lớn lên giữa họ. Sự phân chia “đàn ông, đàn bà và cơ thể đàn bà” ở phần (2) dẫn đến sự ra đời của đứa trẻ. Giờ đây họ là mẹ  cha của nó. Họ có trách nhiệm nuôi dạy đứa trẻ nhưng họ không có quyền định đoạt số phận nó vì nó là con giao ước của Chúa.

4. Phân cảnh cuối cùng: “The Clearing” (từ này có rất nhiều nghĩa khó chọn lựa: sáng tỏ, sạch sẽ, quang đãng, vượt qua trở ngại, thanh toán hết nợ, tiêu tan nghi ngại...). Bài này nói về sự xa cách giữa Chúa với những đứa trẻ do Ngài tạo ra. Không có lời than thở mà chỉ có những cái nhìn lặng lẽ từ Chúa và người kể chuyện hẳn đã phải kinh ngạc trước vẻ đẹp của Trái đất khi lần đầu tiên được nhìn thấy “từ trên không”. Có một cảm giác trong đoạn thơ kết thúc này thể hiện sự ngạc nhiên trước vẻ đẹp của Sự sáng tạo khi con người vượt qua tất cả (lo âu, sợ hãi, tội lỗi...) để đến với Chúa - tức là trở về với Đấng Sáng tạo.

“Lamentations” chứa đầy những hình ảnh thần thoại phong phú đóng vai trò là hòn đá tảng của bài thơ. Bốn trình tự gợi lại những ngày khởi đầu Sáng tạo và kết thúc bằng đêm thiên đường với hình ảnh Đức Chúa Trời ở trên thiên thượng. “Lamentations” đặt các nhân vật nguyên mẫu trên bối cảnh thiên nhiên. Đàn ông, phụ nữ và trẻ em được nhìn thấy trong một thế giới mờ nhạt. Người đọc nhìn thấy sự khởi đầu sơ khai của loài người trong thế giới tự nhiên hoa lá, muông thú, ngày và đêm, và họ nhận thức được những nhu cầu tối thiểu của con người về chỗ ở, hơi ấm, an ninh và thức ăn. Hình ảnh đơn giản, trực tiếp của “Nocturne” minh họa giọng điệu của bài thơ bằng những hình ảnh “rừng”, “ngọn đồi”, “bóng tối”, “lau sậy”, “lá cây”, “sói” và “đàn ông, phụ nữ” cư trú trong môi trường này. “Nocturne” kết thúc bằng một câu thoại gợi nhớ đến hình ảnh mặt trăng lướt qua những tán cây đêm với “tiếng bạc rên rỉ”. Những hình ảnh thần thoại như vậy là những phép ẩn dụ rõ ràng cho những xung động và cảm xúc cơ bản của con người.

Ngôn ngữ giản dị của Glück phản ánh việc bà sử dụng hình ảnh thần thoại với phong cách đặc trưng là so sánh, liên tưởng, chặt chẽ, đầy ánh sáng, góc cạnh rõ ràng để lại nhiều điều cho trí tưởng tượng của người đọc dù đôi khi không thể nào giải thích thỏa đáng.

(3). Nguồn nguyên tác: Text Available Here

(4). Tài liệu tham khảo cho chú thích (2): Reference 

* Dịch và chú thích bởi Mộc Nhân



Không có nhận xét nào: