Mộc Nhân dịch từ tiểu luận “Pure Prose” (Văn xuôi thuần chất), của Damion Searls (June 9, 2015) - bàn về dịch tác phẩm của Jon Fosse từ tiếng Na Uy (1).
Tiếng Na Uy là ngôn ngữ
mà các nhà văn và dịch giả tiếng Anh dường như sẵn sàng học hỏi: James Joyce (2)
đã học nó để đọc Ibsen (3); Lydia Davis (4) học tiếng Na Uy để đọc Dag Solstad
(5); và tôi đã học nó để đọc Jon Fosse (6).
Ngữ pháp của tiếng Na Uy
đơn giản, ít chia thì (tense), từ vựng vừa phải. Ngôn ngữ này là một trong những cốt
lõi sâu sắc của tiếng Anh, nên khi đọc nó có cảm giác quen thuộc một cách kỳ lạ,
giống như một bài hát mà bạn đã từng biết, nay tập hát cho tốt hơn. Sau khi được
yêu cầu đọc cuốn tiểu thuyết Melancholy của Fosse bằng tiếng Đức, tôi quyết định
cùng dịch nó với một người bạn bản xứ nói tiếng Na Uy, và từ đó tôi đã tự mình
dịch thêm hai cuốn tiểu thuyết nữa của Fosse - Aliss at the Fire và Morning
and Evening (7).
Jon Fosse ít nổi tiếng ở
Mỹ hơn một số tiểu thuyết gia Na Uy khác, nhưng ông được tôn kính ở Na Uy. Ông
đoạt nhiều giải thưởng lớn, nhiều năm là ứng cử viên hàng đầu cho giải Nobel
Văn học. Tôi nghĩ về bốn nhà văn lớn của nền văn học Na Uy hơi giống nhóm
Beatles: Per Petterson giống Ringo Starr (tay trống của Beatles) vững chắc, luôn đáng
tin cậy; Dag Solstad giống John Lennon (thành viên trụ cột, nhạc sĩ sáng tác chính), nhà
thực nghiệm, người đưa ra ý tưởng; Karl Ove Knausgaard giống Paul McCartney (tay Guitar Bass, ca sĩ của Beatles), người dễ thương; và Fosse là George Harrison (ca sĩ, nhạc công Guitar, kiêm
sáng tác trong Beatles), người trầm tính, huyền bí, tâm linh. Có lẽ Fosse là
người nhạc công giỏi nhất trong số họ.
Các tựa đề ca khúc của Harrison
như Something, Here Comes the Sun, While My
Guitar Gently Weeps… có thể là của Fosse: Someone Is Going To Come, Closed Guitar, The Name, Night
Sings Its Songs, Angel with Tears in Its Eyes…. Nhưng thật khó để thể
hiện điều gì khiến âm nhạc của anh ấy thành công. Văn xuôi không khó hiểu nhưng những
câu thần chú của Fosse lại khó hiểu như những bản giao hưởng của nhạc sĩ Mỹ, Philip Glass
hay những bức ảnh của đạo diễn người Hungari, Béla Tarr. Đây là phần mở đầu, một phần của câu đầu tiên
trong tiểu thuyết Aliss at the Fire:
“Tôi thấy Signe nằm đó
trên chiếc ghế dài trong phòng và cô ấy đang nhìn vào tất cả những thứ quen thuộc,
chiếc bàn cũ, cái bếp lò, chiếc hộp gỗ, những tấm ván cũ trên tường, cửa sổ lớn
hướng ra vịnh hẹp, cô ấy nhìn nó tất cả mà không nhìn thấy nó và mọi thứ vẫn
như cũ, không có gì thay đổi, nhưng vẫn vậy, mọi thứ vẫn khác, cô nghĩ, bởi vì
kể từ khi anh biến mất và ở lại, không còn gì như cũ nữa, cô chỉ ở đó mà không ở
đó, ngày tháng đến, Ngày trôi qua, đêm đến, đêm đi, và cô đi cùng với chúng, di
chuyển chậm rãi, không để bất cứ điều gì để lại nhiều dấu vết hay tạo ra nhiều
khác biệt, và cô có biết hôm nay là ngày gì không? cô ấy nghĩ, ừ, chắc hẳn hôm
nay là thứ Năm, và bây giờ là tháng Ba, và năm đó là 2002, vâng, cô ấy biết nhiều
đến thế, nhưng ngày đó là ngày nào và vân vân, không, cô ấy không hiểu sâu đến
thế, và dù sao thì tại sao lại nên cô ấy làm phiền à? Dù sao thì nó có quan trọng
gì? Cô nghĩ, dù thế nào đi chăng nữa, cô vẫn có thể an toàn và vững chắc trong
chính mình, như cô trước khi anh biến mất, nhưng rồi nó lại quay trở lại với
cô, anh biến mất như thế nào, thứ Ba đó, cuối tháng 11 năm 1979, và tất cả cùng
một lúc. cô nghĩ mình đã trở lại với sự trống rỗng và cô nhìn vào cánh cửa hành
lang rồi nó mở ra và cô thấy mình bước vào và đóng cánh cửa lại sau lưng rồi cô
thấy mình bước vào phòng, dừng lại và đứng đó nhìn. ở cửa sổ và sau đó cô thấy
mình nhìn thấy anh ấy đang đứng trước cửa sổ và cô ấy nhìn thấy, đứng đó trong
phòng, anh ấy đang đứng và nhìn ra bóng tối, với mái tóc đen dài và chiếc áo
len đen, chiếc áo len màu đen. chiếc áo len cô tự đan và anh hầu như luôn mặc
khi trời lạnh, anh đứng đó, cô nghĩ, và anh gần như hòa làm một với bóng tối
bên ngoài, cô nghĩ, vâng”.
Cứ thế, từng lớp
quá khứ và hiện tại, tổ tiên và những người thân yêu, cho đến khi bạn đắm chìm
trong thế giới đó và văn xuôi gợi lên vinh quang rực rỡ lóe lên trong quá khứ
như những thiên thần Blakean. Có lẽ sẽ thuyết phục hơn khi nói rằng Fosse là
nhà văn duy nhất có cuốn sách khiến tôi rơi nước mắt vì xúc động khi dịch nó.
Nó đã xảy ra với tôi trong từng bản thảo, từ bản đầu tiên cho đến bản in, ở một
đoạn cụ thể mà tôi muốn giữ kín, và sau đó nó lại xảy ra với tôi ở một đoạn cụ
thể trong cuốn sách tiếp theo.
Dù thế nào đi nữa, tôi nêu Fosse không phải để thuyết phục mà để đối chiếu. Khi tôi đọc Fosse lần đầu tiên, khẩu hiệu của anh ấy là “Ibsen mới” (The new Ibsen); giờ đây ông là “nhà viết kịch còn sống, viết và được dàn dựng nhiều nhất,” với gần một nghìn tác phẩm kịch của ông bằng hàng chục ngôn ngữ. Khi bắt đầu, tôi rất ấn tượng rằng chính phủ Na Uy đã trao cho ông một khoản trợ cấp trọn đời cho những nỗ lực văn chương của ông qua việc cho ông quyền sử dụng một tòa nhà phụ của Cung điện Hoàng gia ở Oslo (Nó không phải là biệt thự sang trọng mà chỉ là một căn hộ trong cung điện xây dựng theo phong cách riêng của hoàng gia nằm trong công viên).
Karl Ove Knausgaard (8) từng nói rằng, Fosse tuyên bố ông không phải là một nhà thơ. K. O. K. đã nói điều này ít nhất hai lần tại các sự kiện ở New York: khi cho Jon Fosse xem một bài thơ mà ông viết, Fosse nói rằng một tính từ trong đó không tệ và phần còn lại hoàn toàn không phải là thơ. Knausgaard quyết định Fosse đã đúng. Việc dịch một bài luận của Knausgaard sang tiếng Anh khiến tôi cho rằng Fosse cũng đúng, nhưng không phải theo chiều hướng xấu. Nó dạy cho tôi những gì tôi biết về bản chất của thơ ca và bản chất của văn xuôi.
Fosse viết các cụm từ
mang âm hưởng thuần túy, lặp đi lặp lại bằng vốn từ vựng đơn giản; Knausgaard
thì không. Nhưng trong khi bài luận của Knausgaard chuyển đổi giữa nhiều chủ đề
lớn khác nhau, với những suy ngẫm cá nhân, giai thoại tự truyện, triết học và
phê bình xen lẫn, tôi chưa bao giờ cảm thấy như có một nhà văn ở đâu đó sắp xếp
và sắp xếp tài liệu của mình để trình bày nó với tôi với tư cách là một độc giả.
Trải nghiệm này giống như việc làm chủ đề chính của chủ đề, bất kể chủ đề đó là
gì và bài viết chuyển từ chủ đề này sang chủ đề khác như thế nào. Bằng cách nào đó, lối viết của ông hoàn toàn trái
ngược với Fosse, vẫn trong sáng như vậy. Của Fosse là thơ thuần túy, của
Knausgaard là văn xuôi thuần túy.
Sự khác biệt giữa dòng và câu, giữa thơ và văn xuôi theo nghĩa kỹ thuật, khá đơn giản, nhưng đó không phải là sự khác biệt thú vị. Tôi dần hiểu rằng thơ là sự sáng tạo thế giới có tầm nhìn, một sự bùng nổ của siêu việt; văn xuôi là sự giao tiếp, giữa các cá nhân, theo chiều ngang. Chia sẻ văn xuôi, vận chuyển thơ. Văn xuôi kết nối, thơ sáng tạo. Chỉ có văn xuôi thuần túy mới có thể dạy tôi sự khác biệt...
------------------
Chú thích:
(1). Nguồn: Parisreview
(2). James Joyce (1882 – 1941) là một tiểu thuyết gia, nhà văn viết truyện ngắn, nhà thơ và nhà phê bình văn học người Ireland, được đánh giá là một trong những nhà văn có ảnh hưởng nhất trong văn học thế kỉ XX.
(3). Ibsen: nhà soạn kịch người Na Uy, ông được coi là cha đẻ của kịch nói hiện đại và là nhà văn vĩ đại nhất của Na Uy, một trong những người sáng lập ra chủ nghĩa hiện đại ở trong kịch.
(4). Lydia Davis: nhà văn viết truyện ngắn, tiểu thuyết gia, nhà tiểu luận và dịch giả người Mỹ từ tiếng Pháp và các ngôn ngữ khác.
(5). Dag Solstad: tiểu thuyết gia, nhà văn truyện ngắn và nhà viết kịch người Na Uy với tác phẩm đã được dịch ra 20 thứ tiếng. Ông đã viết gần 30 cuốn sách và là tác giả duy nhất ba lần nhận được Giải thưởng Nhà phê bình Văn học Na Uy.
(6). Jon Fosse: Nhà văn Na Uy, Nobel Văn học 2023
(7). Tham khảo tác phẩm của Jon Fosse tại đây
(8). Karl Ove Knausgård (thường viết tắt K.O.K) là một tác giả người Na Uy.
* Dịch và chú thích bởi Mộc Nhân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét