Mộc Nhân lược dịch từ bài báo “Louise Glück, 80, Nobel-Winning Poet Who Explored Trauma and Loss, Dies” (Louise Glück, 80 tuổi, Nhà thơ đoạt giải Nobel, người đã khám phá chấn thương và mất mát, đã qua đời) – trên tờ New York Time (1).
President Barack Obama presented Ms. Glück with
the National Humanities Medal in a White House ceremony
in September 2016
Louise Glück được ca ngợi
là một trong những nhà văn vĩ đại nhất còn sống của nước Mỹ, thơ bà pha trộn chất
liệu cá nhân sâu sắc với các chủ đề về thần thoại, tôn giáo và thế giới tự
nhiên. bà gần như đã giành được mọi vinh dự hiện có, bao gồm Giải Pulitzer (Pulitzer Prize), Giải Sách Quốc gia (The National Book Award) và Giải Nobel
Văn học (The Nobel Prize for Literature)
năm 2020. Bà đã qua đời ngày 13/10/2023 tại nhà riêng ở Cambridge, Mass; thọ 80
tuổi.
Cái chết của bà được xác
nhận bởi Jonathan Galassi, biên tập viên tại Farrar, Straus & Giroux.
Richard Deming, một người bạn và đồng nghiệp cũ của bà ở khoa tiếng Anh tại Đại
học Yale, cho biết nguyên nhân là do ung thư.
Glück xuất bản những cuốn
sách đầu tiên vào những năm 1960 và nhận được một số lời khen ngợi. Bà đã củng
cố danh tiếng của mình trong những năm 80 và đầu những năm 90 bằng một loạt
sách, trong đó có “Triumph of Achilles” (1985), cuốn sách đã giành giải Nhà phê
bình Sách Quốc gia (National Book Critics
Circle Award), “Ararat” (1990); và “The Wild Iris” (1992), đoạt giải
Pulitzer. Tác phẩm của bà vừa mang tính cá nhân sâu sắc - chẳng hạn như
“Ararat”, kể về nỗi đau mà bà trải qua trước cái chết của cha mình - vừa có thể
tiếp cận rộng rãi, đối với cả các nhà phê bình, những người ca ngợi sự rõ ràng
và chất trữ tình sâu sắc. Ngôn ngữ thơ của Glück rất thẳng thắn, rất gần với
cách diễn đạt lời nói thông thường. Tuy nhiên, sự lựa chọn cẩn thận về nhịp điệu
và sự lặp lại, cũng như tính cụ thể của ngay cả những cụm từ mơ hồ về mặt thành
ngữ, đã mang lại cho những bài thơ của cô một sức nặng khác lạ.
Nhưng ngay cả khi cô
Glück tiếp tục dệt câu thơ của mình bằng sợi dây tự truyện, không có gì mang
tính duy ngã (solipsistic) trong tác
phẩm sau này của cô, ngay cả khi cô khám phá những chủ đề sâu sắc về chấn thương
và nỗi đau.
Với sự hóm hỉnh, đôi khi
không khoan nhượng và ngôn ngữ sắc bén, bà đã kết nối cái tôi với xã hội, cái cụ
thể với cái phổ quát, lặp lại những suy ngẫm về cuộc đấu tranh của chính mình với
các chủ đề về gia đình, cái chết và sự mất mát.
Bà là nhà thơ nữ người Mỹ
đầu tiên giành được giải Nobel Văn học kể từ sau T.S. Eliot vào năm 1948 - ủy
ban Nobel đã ca ngợi “giọng thơ không thể nhầm lẫn với vẻ đẹp khắc khổ khiến sự
tồn tại của cá nhân trở nên phổ biến” (unmistakable
poetic voice that with austere beauty makes individual existence universal).
Những tính từ mà người
ta tìm thấy trong các bài phê bình về tác phẩm của cô Glück thường là: “ảm đạm”
(bleak), “dằn vặt” (alienated) và “khắc khổ” (austere). Nhà phê bình Don Bogen từng
viết: “Cô ấy thực chất là nhà thơ của một thế giới đã mất” (She is at heart the poet of a fallen world). Thiên nhiên hiếm khi
có vẻ đẹp trong tác phẩm của cô ấy; nó đầy đau buồn, nguy hiểm và thất vọng (Mock
Orange).
Nhưng nếu công việc của
bà hiếm khi mang lại sự cứu chuộc, chứ đừng nói đến niềm vui, thì nó vẫn tìm kiếm
sự an ủi, nếu chỉ trong sự chấp nhận thế giới như hiện tại - chiến thắng của
Achilles, theo quan điểm của bà, là việc anh nhận ra cái chết của chính mình. Và
trong cái chết, bà cảm thấy, người ta có thể tìm thấy hy vọng tái sinh (Wild
Iris).
Louise là một đứa trẻ có
trí tuệ sâu sắc. Bà nhớ lại một buổi tối, khi đó khoảng 6 tuổi, đã thức khuya
tranh luận với chính mình đâu là “bài thơ hay nhất thế giới” và không thể quyết
định giữa hai tác phẩm lọt vào vòng chung kết: “The Little Black Boy” của
William Blake và “Sông Swanee River” của Stephen Foster. Cuối cùng bà tự đánh
giá Blake đã thắng. Bà cũng đấu tranh với chính mình và tự phê bình bản thân một
cách mãnh liệt.
Vào giữa những năm 1960,
bà làm thư ký ban ngày và viết thơ khi rảnh rỗi. Chẳng bao lâu sau, bà đã được
xuất bản thơ trên các tạp chí nổi tiếng như The New Yorker, The Atlantic và The
Nation. Mặc dù khi bắt đầu sự nghiệp, bà nói rằng cô không muốn trở thành một
người dạy viết thơ (teaching poet) nhưng
bà đã chấp nhận một vị trí như thế tại Cao đẳng Goddard ở Vermont. Điều khiến
bà ngạc nhiên là bà thấy mình thích công việc giảng dạy và thậm chí còn lấy cảm
hứng từ công việc đó. Và bà vẫn làm công việc ấy trong suốt quãng đời còn lại của
mình tại Đại học Williams, Yale, Stanford.
Bà đã xuất bản 14 tập
thơ, trong đó có tập “Những bài thơ: 1962-2012” (Poems: 1962-2012) xuất bản năm 2012 là bản tóm tắt hoàn chỉnh về
thơ đã xuất bản của bà vào thời điểm đó. Tập thơ này được coi là bắt buộc phải
đọc đối với bất kỳ nhà thơ đầy tham vọng nào - và có thể nói là bất kỳ ai
nghiên cứu nghiêm túc về văn học Mỹ hiện đại.
Ngoài thơ, bà cũng viết
hai tuyển tập tiểu luận và vào năm 2022, “Marigold and Rose: A Fiction”, một cuốn
sách nằm giữa ranh giới giữa tiểu thuyết và thơ.
Năm 2016, Tổng thống
Barack Obama đã trao tặng bà Huân chương Nhân văn Quốc gia (The National Humanities Medal) trong
một buổi lễ tại Nhà Trắng.
Bà Glück không bao giờ cảm
thấy thoải mái với sự nổi tiếng của mình trước công chúng và bà lo lắng về điều
này. Tuy nhiên bà đã chấp nhận lời khen ngợi như một dấu hiệu về sự bất tử mà
cô ấy đã tìm kiếm từ khi còn nhỏ.
Bà nói trong bài phát biểu
nhận giải Nobel: “Một số nhà thơ không thấy việc tiếp cận được nhiều người về mặt
không gian, như trong khán phòng chật kín”. “Họ nhìn thấy việc tiếp cận nhiều
người theo thời gian, tuần tự, nhiều người theo thời gian, trong tương lai,
nhưng theo một cách sâu sắc nào đó, những độc giả này luôn đến riêng lẻ, từng
người một.”
(1). Nguồn: nytimes
(2). References:
- Các bài thơ gắn thẻ Louise Glück
- Một Tiểu luận về Louise Glück
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét