Người Việt Nam ta quá quen thuộc với cụm từ "cúng đất". Cụm từ này chẳng có gì khó hiểu - nôm na là soạn một mâm lễ để cúng chỗ đất đai. "Cúng đất" được thực hiện quanh năm, bất kể mùa nào. Khi có sự việc mang ý nghĩa khai mở, tạ ơn, vui mừng, lễ hội, kỷ niệm, sinh-tử, đầu năm, cuối năm... người Việt đều "cúng đất" - mỗi đám cúng đất như vậy đều gắn với ý thức tâm linh khác nhau.
Tuy nhiên có thể nói việc "cúng đất" mang ý nghĩa phong tục tập trung và phổ biến vào tháng Hai âm lịch.
Vì sao vào tháng Hai âm lịch, tục cúng đất lại phổ biến hơn các thời điểm khác?
Dân gian quan niệm sau một thời gian dài vui xuân "Tháng Giêng là tháng ăn chơi", thì bước qua tháng Hai là bắt tay vô lao động sản xuất. Đây là tháng "trọng xuân" (tháng giữa xuân - có câu thơ của Đỗ Phủ "Trọng xuân giang sơn lệ/ Phiêu phong quá vô thì" nghĩa là: Giữa mùa xuân cảnh núi sông đẹp/ Gió lúc nào cũng thổi không ngưng nghỉ) nên dân gian khởi động cho năm mới bằng việc "cúng đất" hàng năm để tạ ơn đất đai khi bước vô năm làm ăn mới.
***
Tất nhiên nơi nào trên đất Việt cũng có "cúng đất" cả nhưng cư dân Việt ở vùng đất từ phía nam Đèo Ngang (Quảng Bình) trở vào thường có lễ cúng đất phổ biến hơn, thành tục lệ - tên chữ gọi là cúng tá thổ.
Vậy lễ cúng này có ý nghĩa như thế nào?
"Tá" nghĩa là vay mượn, "thổ" là đất; “tá thổ” là vay mượn đất đai – hiểu là người đang sống trên khu đất
hiện nay đã mượn (nương tựa, sinh sống) trên đất của người có công khai khẩn từ trước hoặc người tiền trú, dân bản địa… vì nhiều lí do họ đã rời đi (chết đi, bán
lại qua nhiều đời, bị xâm chiếm…).
Khi người Việt vượt Hoành Sơn (Đèo Ngang) tiến vào phía Nam thì đất
này vốn đã có chủ. Họ đến đây vì nhiều lý do: có đoàn đi theo Chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào tìm đất mới, cũng có tội đồ trốn tránh sự truy tìm của triều đình, binh lính không còn sức chiến đấu... gọi chung là người đàng ngoài đến khai phá đất hoang, mở làng lập ấp…
Nhưng dù là đất hoang vu
đầy sơn lam chướng khí hay đất của chủ
cũ thì việc người đến sau định cư tại nơi này nhớ đến người trước, biết ơn đất
đai đã cho họ một cuộc sống mới an bình no đủ cũng là một nét văn hóa đáng lưu
giữ - nó thuộc về văn hóa phong tục chứ không phải mê tín dị đoan như có mọt thời
chúng ta nhầm lẫn và muốn xóa bỏ.
Lễ cúng đất (tá thổ) là một
phong tục đẹp, thể hiện lòng thành kính, hàm ơn của người đến sau với tiền nhân
khai khẩn hoặc chủ cũ đã tạo dựng dù họ đã mất đi để mình thừa hưởng. Lễ cúng
tá thổ, vì thế phản ánh mối quan hệ giữa tự nhiên với con người, giữa hiện tại
với quá khứ.
Ngoài ý nghĩa văn hóa,
phong tục, lễ cúng này còn mang dấu ấn tâm linh người Việt - vốn trọng “người
khuất mặt” bao gồm thần thánh, tổ tiên, âm binh, cô hồn lẩn khuất nơi chúng ta
đang sinh sống.
Vậy nên lễ cúng này không
chỉ tổ chức trong phạm vi gia đình mà còn trong cả cộng đồng. Cộng đồng nhỏ thì
tổ chức cúng xóm, cúng đường, cúng phố - nơi mình đang ở - người ta chọn một ngày tốt bất
kỳ trong tháng Hai âm lịch; ở cộng đồng lớn xóm hơn thì cúng đình, cúng làng; cộng
đồng lớn hơn tí nữa thì cúng cầu an cấp huyện hoặc kết hợp với các lễ hội được
chính quyền công nhận (ngày tháng được quy định)…
Mâm lễ cúng và bài văn
cúng thì cũng tùy nơi tổ chức chứ không nhất thiết đúng bài bản như một số
trang phong thủy ấn định phải thế này thế nọ mới đủ lễ, được chứng…
Những danh vị thường được khấn – cung thỉnh - trong lễ cúng này thường là: Chư vị Bổn xứ Thành hoàng Thổ địa (các vị thần đất đai đời trước), Đương cảnh Thổ địa Phước đức Chánh thần Tôn thần (vị thần đất đai đương nhiệm), Đương niên Thái tuế Chí đức Tôn thần (Vị thần vâng lệnh Thượng đế xuống bảo hộ sinh linh tảo trừ yêu nghiệt), Hành khiến Hành binh Tôn thần (Vị thần điều khiển âm binh để bảo vệ sinh linh)… Ngoài ra cũng thỉnh mời chư vị ma Chăm, ma chợ, ma mọi, ma rợ (gọi chung là âm binh, người khuất mặt)… Và tùy theo hiểu biết, nghiên cứu của vị chủ tế mà list khấn vái có thể dài ngắn, ít nhiều danh vị khác nhau. Thậm chí có chủ tế còn soạn bài khấn vái gọi tới "Mười phương chư Phật" hoặc "Ngọc Hoàng Thượng đế"... theo tôi khấn vái như thế là hơi bị lố - chắc họ nghĩ kêu réo mấy vị tối cao sẽ được ban ân sủng chăng ??? (Kiểu như đại hội cấp xã huyện mà xin cấp trung ương theo dõi & lãnh chỉ đạo...) . hehe.
Còn với người bình dân không nặng về âm lễ thì chỉ khấn vái bằng cái tâm cũng là quá đủ, gói gọn trong cụm từ "khấn vái đất trời" - và chẳng có ai vì khấn vái cúng kính trật bài mà bị tai nạn hoặc đói nghèo đâu mà lo.
"Chắp tay vái lạy đất trời
Gió mưa bình lặng, để đời ấm chăn" (Ca dao)
hoặc:
"Ơn trời hạ kế sang đông
Lúa khoai no đủ, thong dong con người" (Ca dao)
***
Ở Quảng Nam, trong tháng
Hai này, bên cạnh lễ cúng tá thổ còn có nhiều lễ hội khác liên quan mà suy cho
cùng cũng là nhân tiết lập xuân mà tri ân tiền nhân:
- Lễ hội bà Phường Chào (25/2
âm lịch)
- Lễ hội bà Thu Bồn (12/2
âm lịch)
- Lễ cúng Chúa Ngung đào lương bang mà tùy vào từng vùng miền khác nhau kết hợp với tín ngưỡng khác nhau mà bà được gọi bằng những cái tên như: Chúa Ngung man nương, Ngung man nương, Thiên Y A Na Diễn ngọc phi, bà Chúa Tiên, Chúa Xứ, nữ thần Mẹ xứ sở (Pônưga) trong tín ngưỡng mang sắc thái Chăm bản địa và tục thờ Mẫu trong tín ngưỡng của người Việt từ phương bắc vào (Lễ này mỗi vùng chọn ngày khác nhau nhưng phổ biến ở QN là vào tháng Hai).
Cảnh đua ghe trong Lễ hội Bà Thu Bồn (12/2 âl) trên sông Thu Bồn |
Trong thời hiện đại,
ngoài ý nghĩa tâm linh, văn hóa, phong tục, lễ cúng đất hàng năm trong phạm vi
cộng đồng cũng là dịp để mặt bà con hàng xóm gặp nhau, thắt chặt tình đoàn kết
xóm giềng, chúng tay đóng góp xây dựng làm đẹp làng xóm phố phường… qua đó gìn
giữ phong tục và ứng xử tốt đẹp.
Khái niệm “cúng đất” như đã nói phần đầu, được mở rộng không chỉ trong tháng Hai tá
thổ mà dường như người Việt khi khởi sự làm bất cứ việc gì: khai trương,
làm nhà, động thổ, sửa chữa, sinh nhật, thôi nôi, ma chay, giỗ chạp… họ cũng đều
“cúng đất”. Điều đó cũng không ngoài tư duy – quan niệm tâm linh - phải ra lễ xin
phép, báo cáo với thần đất để mong cho mọi việc được suôn sẻ, thuận lợi.
Dù dưới bất kỳ hình thức hay nội dung nào thì việc “Có kiêng có lành”, “Có thờ có thiêng” cũng là nét ứng xử văn hóa cần được tôn trọng.
Và chúng ta tin rằng con người Việt Nam ngày nay có đủ bản lĩnh và tri thức để lựa chọn cho mình những giá trị tâm linh đúng đắn và hữu ích đem lại hạnh phúc cho chính mình và cộng đồng.
-----------
MN ghi chép - có tham khảo tư liệu
từ nhiều nguồn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét