Tiếp theo phần (1): Về Phùng Quán và Thanh Tâm Tuyền
3. HỒ DZẾNH
Ông tên là Triệu Hà Anh,
người gốc Quảng Đông. Vì chữ Hà Anh đọc theo âm Quảng Đông là Hồ DZinhs, nên
ông lấy làm bút danh. Tuy nhiên, viết chệch thành Hồ DZếnh cho nhã hơn.
Ông là 1 người Trung Hoa
nhưng có tâm hồn Việt. Một hiện tượng đặc biệt trong văn chương VN thế kỷ XX.
Ông được xếp ngang hàng
với Thạch Lam và Thanh Tịnh ở phương diện nghệ thuật. Năm 1987, khi Thanh Tịnh
qua đời, ông viết những dòng cảm khái trên báo Văn Nghệ :
“Đời xếp tôi,
anh và Thạch Lam
Ngồi chung một
chiếu hội văn đàn
Than ôi chiếu
đã hai lần lạnh
Để một mình
tôi giữa thế gian.”
Văn chương của ông cứ buồn
man mác, như chính cuộc đời ông, hiếm có một ngày vui.
Ông sáng tác cả văn xuôi
và thơ.
Văn xuôi của ông, nổi tiếng
nhất là tập Chân trời cũ, in ở Hà Nội năm 1943, do Thạch Lam viết lời giới thiệu.
Một tập truyện ngắn, hay
là 1 bức tranh về xã hội VN trước 1945. Nghệ thuật nổi bật là sự giản dị trong
câu chữ về những chuyện đời thường của ông và gia đình ông.
Chẳng hạn, ngay đoạn đầu.
Một buổi chiều xa vắng như trong cổ tích, có 1 người đàn ông TQ dừng chân nơi 1
bến đò miền trung VN. Ánh nắng cuối cùng trong ngày đã tắt. Người ấy đưa tay
lên miệng, gọi vọng sang:
- Đò...ơi...
Và có một con đò và 1 cô
gái xuất hiện, đưa khách qua sông.
Đêm ấy, người khách ngủ
nhờ trong nhà cô lái đò, nhà chỉ có 2 mẹ con. Lạ nhà, cả đêm ông không ngủ được,
bất giác nhớ bài thơ cổ của Trương Kế, ông khẽ đọc bằng giọng Quảng Đông:
“Nguyệt lạc ô
đề sương mãn thiên
Phong giang
ngư hỏa đối sầu miên...”
Ở buồng đằng trong, cô
gái nghe giọng đọc thơ kỳ lạ, cười khúc khích.
Hồ DZếnh kể, người đàn
ông ấy sau này là cha tôi, và cô lái đò ấy sau này là mẹ tôi.
Một tập truyện ngắn buồn
phảng phất, nhưng văn đẹp, toàn chuyện đời thường của gia đình, từ người mẹ
chính đến mẹ kế, từ người bố nghiện thuốc phiện đến ông chú cờ bạc, từ người
anh tào lao cả đời đến cô em gái cùng cha khác mẹ....tất cả tạo ra 1 xã hội VN
thu nhỏ mà sống động thời thuộc địa.
Hồ DZếnh viết thơ nhiều
hơn. Tập thơ điển hình của ông là tập Quê
Ngoại, trước 1945.
Điểm nổi bật trong thơ
ông là buồn và đẹp. Một cái gì như "nghệ thuật vị nghệ thuật". Ông có
những câu thơ như châm ngôn, ví dụ :
“Tình chỉ đẹp
khi còn dang dở
Đời hết vui
khi đã trọn câu thề.”
Nó giống như một lời dăn
dạy trong cuộc sống vậy.
Trong tập Quê Ngoại, chủ
yếu là các bài thơ về đất nước và con người VN, bởi quê ngoại là quê mẹ ông. Và
đây là một hiện tượng đặc biệt, một người Minh hương nhưng sử dụng tiếng Việt tới
trình độ dị nhân.
Hồ DZếnh có nhiều bài
thơ rất hay, điển hình như Cô gái Việt
Nam, Chuyện hẹn hò, Hoa mẫu đơn, hay bài lục bát Rằm tháng giêng.
Khi đọc bài Rằm tháng giêng, thi sĩ Bùi Giáng nói:
có thể không đọc thơ lục bát của Nguyễn Du, nhưng không thể không đọc thơ lục
bát của Hồ Dzếnh. Tất nhiên chỗ này Bùi Giáng nói quá, nhưng cũng cần hiểu là
thơ lục bát của Hồ DZếnh rất hay.
Hồ DZếnh có 1 bài thơ đặc
biệt viết về chủ đề công giáo, gọi là bài Hoa
mẫu đơn. Vì bài thơ dài, nên không chép ra. Có câu thơ rất đặc biệt: Mẫu đơn nở giữa hai lời nguyện...
Không biết 2 lời nguyện
đây của ai, của 2 kẻ yêu nhau, hay lời nguyện bất kỳ nào đó trên đường đời ta
đã gặp....
Bài Chiều của ông, dường như tập trung hết cái nỗi buồn của kẻ tha
hương. Bài thơ 5 chữ này được Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước phổ nhạc, theo 1 điệu
van cổ điển Âu châu.
Cuộc đời Hồ DZếnh là một
chuỗi những ngày buồn. Nhưng buồn nhất có lẽ là năm 1978, khi xảy ra vụ nạn kiều.
Hôm ấy, công an gọi ông
lên và bảo :
- Ông phải về TQ, ông phải
rời khỏi VN.
Hồ DZếnh, có lẽ đau thắt
nơi trái tim, nhưng ông vẫn cứng cỏi :
- Tại sao tôi phải đi?
Đây là đất nước tôi, là quê hương tôi, trong tôi, dòng máu Việt vẫn đang chảy...
Người công an nói : được,
ông không đi thì đi theo chúng tôi.
Người ta đưa ông lên 1
chiếc xe, rồi chở thẳng vào Hỏa Lò.
Nhưng không phải giam
ông, mà đưa ông vào 1 dãy nhà, mở cửa 1 căn phòng cho ông nhìn vào...
Trời ơi... ông rùng
mình... cái gì kia? Một sinh vật, không hẳn là người, không hẳn là vật, đang dở
bò, dở nằm trên sàn nhà..
Người công an nói :
- Nếu ông không đi, thì
ông sẽ giống kẻ kia.
Nhưng, từ trong tim ông,
bất ngờ tràn ra 1 sức mạnh vô bờ:
- Tôi không đi.
Vì, ông yêu đất nước
này, yêu cái ngôn ngữ của dân tộc này, và yêu những con người của đất nước ấy.
Vậy, không có thế lực nào bắt ông phải xa rời miền đất ấy.
Hồ DZếnh mất tháng
8/1991 tại Hà Nội.
Vẫn còn đâu đây 2 câu
thơ quen thuộc của ông :
“Nhớ nhà châm
điếu thuốc
Khói huyền
bay lên cây...
* Nguồn: đăng lại từ Trang fb Văn học Miền Nam
-----------------------------
4. HỒI ỨC CỦA HỮU LOAN
Bài của chính tác giả Hữu Loan
Tôi sinh ra trong một
gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ duyên được cắp sách đến trường như bọn trẻ
cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi
tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người, nhờ ông mà năm 1938 – lúc
đó tôi cũng đã 22 tuổi – tôi chơi ngông vác lều chõng ra Hà Nội thi tú tài, để
chứng tỏ rằng con nhà nghèo tự học cũng có thể đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi
chẳng có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài Pháp thời
đó rất khó khăn. Số người đỗ trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5, 6 chục
năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những cậu khóa ấy, trong số có Nguyễn
Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuân, Đỗ Thiện và tôi… (theo Lê Thọ Bình, báo
Pháp Luật số Xuân Giáp Thân)
Với mảnh bằng tú tài Tây
trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi
của tôi được bà Tham Kỳ chú ý, vời về nhà dạy kèm cho hai đứa con nhỏ. Tên thật
của bà Tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra
canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh
Hóa, bà Tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và
mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt đến (theo Lê Thọ Bình, báo đã dẫn).
Bà Tham Kỳ là một người
hiền lành tốt bụng, đối xử với tôi rất đàng hoàng tử tế, coi tôi chẳng khác người
nhà. Nhớ lại ngày đầu tiên khoác áo gia sư, bà gọi mãi, đứa con gái – lúc đó mới
8 tuổi – mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay miệng lí nhí: “Em chào thầy ạ!”
Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy,
tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời.
Thế là tôi dạy em đọc, viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông
lâm ở Sài Gòn nên sinh ở trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy
đâu hiểu đó nhưng ít nói và mỗi lần mở miệng là cứ y như một «bà cụ non». Đặc
biệt em chăm sóc tôi hàng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi
ngồi ăn lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng ướt em vừa hái ở vườn;
những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở
góc nhà đem ra giếng giặt…
Có lần tôi kể chuyện “bà
cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em,
thế là em dỗi! Suốt một tuần liền, em nằm lì ở buồng trong, không chịu học
hành… Một hôm bà Tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi
đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện cho
em nghe; rồi tôi đọc thơ… Trưa hôm ấy, em ngồi dậy, ăn một bát to cháo gà và bước
ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả
nhà không ai đồng ý: «Mới ốm dậy, còn yếu lắm, không đi được đâu!» Em không chịu,
nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà
Tham Kỳ đưa em lên núi chơi…
Xe kéo chạy chừng một giờ
mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc con, tôi đuổi theo muốn
đứt hơi! Lên tới đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em. Chúng
tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt
nhìn ra tận chân trời. Không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:
- Thầy có thích ăn sim
không?
Tôi nhìn xuống sườn đồi:
tím ngắt một màu sim. Em đứng lên, đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm
thiếp đi trên thảm cỏ… Khi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp
sim. Những quả sim đen nhánh, chín mọng.
- Thầy ăn đi!
Tôi cầm quả sim từ tay
em đưa lên miệng và trầm trồ:
- Ngọt quá!
Như đã nói, tôi sinh ra
trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật
chưa bao giờ tôi được ăn những quả sim ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn hết
quả này đến quả khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi
cũng đỏ tím, hai bên má thì… tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười
theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất
chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà Tham Kỳ, tôi lên đường
theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng
nhìn theo. Tôi đi… Lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng, em vẫn đứng đó, nhỏ bé
và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả
và lầm lũi đi… Tôi quay đầu nhìn lại… Em vẫn đứng yên đó…Tôi lại đi và nhìn lại
cho tới khi không còn nhìn thấy em nữa…
Những năm tháng ở chiến
khu, thỉnh thoảng tôi có nhận được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và
đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 đã có nhiều chàng trai
đến ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ…
Chín năm sau, tôi trở lại
nhà… Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều,
nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô
học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp…
Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn
lo sợ vì hai gia đình không «môn đăng hộ đối» một chút nào. Mãi sau mới biết việc
hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm «soạn kịch bản».
Một tuần sau đó chúng
tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, «không đòi may áo mới
trong ngày hợp hôn», bảo rằng là: «Yêu nhau, thương nhau cốt cái tâm và cái
tình bền chặt là hơn cả». Tôi cao ráo, học giỏi, làm thơ hay lại… đẹp giai nên
em thường gọi đùa là ông chồng độc đáo.
Đám cưới được tổ chức ở ấp
Thị Long, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có
hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh
phúc hơn bao giờ hết!
Hai tuần phép của tôi
trôi đi thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm
chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín
năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ đây em không còn là cô bé Ninh nữa mà đã là
người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, tôi lại quay đầu nhìn lại… Nếu như
chín năm về trước, nhìn lại chỉ cảm thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi
thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.
Ba tháng sau, tôi nhận
được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: hôm đó là ngày 25 tháng
5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồng (thuộc ấp Thị
Long, Nông Cống), vì muốn chụp lấy tấm áo bị nước cuốn đi nên trượt chân té xuống
sông chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em đi vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn
lòng tri kỷ, để lại cho tôi nỗi đau không gì có thể bù đắp nổi! Nỗi đau ấy, gần
60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.
Nỗi đau ấy tôi phải giấu
kín trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần
chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn… Dường như càng kìm nén thì nỗi
đau càng dữ dội hơn. May sao sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm
tư gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong tôi được dịp bung
ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng. Hai
mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi, chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những
câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
Nhà nàng có ba người anh
đi bộ đội
Những em nàng có em chưa
biết nói
Khi tóc nàng đang xanh…
… Tôi về không gặp nàng…
Về viếng mộ nàng, tôi
dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt
giấy để lại nhà một người bạn ở Thanh Hóa. Anh bạn này đã chép lại và chuyền
tay nhau suốt những năm chiến tranh.
Đó là bài thơ Màu Tím
Hoa Sim.
Đến đây, chắc bạn đọc đã
biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916, hiện tại đang “ở nhà
trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc
Xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.
Em Ninh rất ưa mặc áo
màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường
nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi mới viết nổi những câu: chiều hành
quân/ qua những đồi hoa sim /những đồi hoa sim/ những đồi hoa sim dài trong chiều
không hết /màu tím hoa sim /tím chiều hoang biền biệt và chiều hoang tím có chiều
hoang biết/ chiều hoang tím tím thêm màu da diết.
Mất nàng, mất tất cả,
tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội; từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một
phần cũng vì tính tôi “hay cãi, thích chống đối, không thể làm những gì trái với
suy nghĩ của tôi”. “Bọn nó” nhiếc móc, chê tôi ủy mị, hoạnh họe tôi đủ điều,
không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Tôi chẳng cần, mặc kệ chúng! Tôi
thương, tôi nhớ Hoa Sim của tôi quá rồi! Với lại, tôi cũng đã chán ngấy cái mặt
nạ yêu nước của “bọn nó” rồi!
Tôi về quê chúng chẳng
buông tha, theo dõi quản thúc, thường xuyên kiếm chuyện gây khó dễ tôi cũng chẳng
cần biết! Sau bao nhiêu năm trời ngậm cay nuốt đắng, tôi đã được dịp phơi bày
tâm sự trong hai kỳ phỏng vấn của Hương Ly, phóng viên BBC tiếng Việt phát
thanh trong hai ngày 5 và 12-10-2002. Theo tôi thì tình hình chung của đất nước
bây giờ là thằng nào cũng lợi dụng trèo đầu cỡi cổ thằng dân chứ có cái gì đâu…
Sau phần đầu nói về nguồn gốc của Màu Tím Hoa Sim và những hệ lụy của bài thơ
này, trong phần II tôi đã nói về cuộc sống cơ hàn và những âm mưu ám sát, chế
ngự của đảng đối với tôi và gia đình tôi từ năm 1956. Dù gian khổ và chết hụt
nhiều lần, tôi nhất định không chịu quỵ lụy. Hồi ấy, ra làm ở ngoài Trung Ương
thì bắt phải theo cộng sản nên tôi bỏ tôi về. Tôi bỏ về nó không cho về… Nó làm
tôi tam tình, tứ tội, làm đủ cách đễ thủ tiêu nhưng mà tôi vẫn tin là tôi có sự
che chở của Trời – Phật cho nên nó không thủ tiêu nổi, bao nhiêu lần đầu độc
không xong… Đó là cái thời 1955 – 1956 khi phong trào Văn nghệ sĩ chống Ðảng bắt
đầu bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc
tài, và đồng thời chống những Văn nghệ sĩ bồi bút đang tâm lừa thầy phản bạn, dốc
tâm ca tụng Ðảng để kiếm chút cơm thừa canh cặn của chế độ. Làm thơ phải có cái
tâm mà phải là cái tâm linh thật thiêng liêng thì mới có thơ hay. Thơ hay thì sống
mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải
làm về Ðảng, ca tụng Ðảng, ca tụng cộng sản, ca tụng cái buôn bán chiến tranh.
Bởi vì cái đánh nhau là cái dễ kiếm chác lắm. Mà kiếm chác ở cái chiến tranh ấy
thì khó kiểm tra lắm cho nên những cái bọn ăn bẩn ấy bao giờ cũng chủ trương
chiến tranh, buôn bán chiến tranh. Mà tôi thì tôi thấy cái đấy là cái khổ dân
nhất nên tôi chống hết sức. Lúc giờ người ta đang một tí là đề cao Hồ Chí Minh,
hai tí là đề cao Hồ Chí Minh… trong khi tôi lại đề cao cái Tình Yêu. Tôi khóc
người Vợ tử tế với mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó khóc như vậy,
nó cho là khóc cái tình cảm riêng… Y như trong Thơ nói đấy: tôi lấy Vợ rồi đi Bộ
đội, mới lấy nhau được có hơn tháng, ở nhà Bà ấy đi giặt rồi chết đuối ở sông…
Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc. Bài thơ ấy lúc bấy giờ nó cho là
phản động, làm thơ là phải làm về cộng sản, làm về bác Hồ chứ không được khóc
cái đau riêng của mình… Cái đau khổ riêng của con người tại sao lại không được
khóc!?
Bọn nó xúc phạm đến danh
dự và tình cảm thiêng liêng của người Vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956,
tôi bỏ Ðảng, bỏ Cơ quan về thẳng nhà để đi cày. Bọn ấy không cho bỏ, bắt tôi phải
viết đơn xin. Tôi không xin… Tôi có cái tự do của tôi, cái chuyện bỏ Ðảng, tôi
muốn bỏ là tôi bỏ không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày, đi bừa, đi
thồ, đi đốn củi đưa về, đi xe đá để bán, bọn nó phá tôi đủ cách, bắt giữ xe đến
nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ
phía trước, có hai càng phìa sau thùng gỗ để đủn hay kéo đi. Xe cút kít nó cũng
không cho, cấm không ai được bán bánh xe cho tôi nữa. Có lần tôi phải gánh bộ,
gánh bằng vai tôi cũng cứ nhận. Tôi cứ gánh tôi làm, không bao giờ tôi chịu khuất
phục. Thế mà chúng nó cũng theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an mật
đi theo dõi, cho người theo hại tôi… Nhưng mà lúc nào cũng như có người cứu
tôi! Có một cái lạ là chính Thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên mật
vụ nói thật với tôi là được giao lệnh giết tôi nhưng nó là cái thằng rất yêu
Quê hương, nhớ Quê nhà. Nó thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Ninh Bình
của nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy không nỡ giết tôi.
Ngoài bài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác
được mến chuộng. Sau năm 1956, khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm
bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ
đến nỗi không có đến cái chiếu mà nằm!
Chiếc chiếu
Có ai thấy một
người cha
Từng buổi, từng
buổi
Trước tủ kính
cửa hàng Mậu dịch dòm như nổ mắt
Tì mũi dẹp
như quả bóng xuống hơi
Thầm đọc đi đọc
lại giá hàng từng thứ đồ chơi
Dù nhiều lần
đã hạ giá
Trong óc nổi
bòng bong từng mớ
Những cơm đến
gạo đến quần đến áo
Ðôi chiếu nằm
rách từ giữa rách ra
Tục ngữ nói rằng
những chiếc nhà dột từ nóc trên dột xuống
Từng sáng mai
nhìn gầm giường
Ðốt cói rụng
đầy như chiếu rụng đốt xương
Gió thổi từ
dưới thổi lên
Muỗi cũng đốt
từ dưới đốt lên
Nhưng con đái
dầm lại tiện
Ròng rã mười
năm kháng chiến
Cầm vững hai
tay
Một cái tình
thần
Choảng nhau với
súng với bom
Gian khổ còn
ư ?
Bố con ta lại
vung cái tinh thần như tráng sỹ vung gươm
Chong chóng
không quay
Con vứt đi phụng
phịu
Sáng kiến làm
đồ chơi
Bố thì không
thiếu
Bố lại lấy lá
dứa vận cho con cái kèn
Bố thổi nó
kêu lên tò he. Tò he
Con đắc trí
giật kèn đi thổi khắp Ô Kim Mã
Tò he. Tò he
Như một thiên
sứ Hài đồng
Xuống lệnh điềm
tin
Tò he. Tò he
Nhớ truyện
Ðông Chu
Sao đỏ, sao
đen
Tò he. Tò he
Cuộc đời đẩy đưa, định mệnh
dắt tôi đến với một người phụ nữ khác, sống cùng tôi đến ngày hôm nay. Bà tên
Phạm Thị Nhu, cũng là một người phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Bà vốn là một nạn
nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố điền chủ của Việt Minh.
Nhớ lại, lúc đó, tôi còn
là chính trị viên tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có
học, hiểu biết luân thường đạo lý, lại có tâm hồn nghệ sĩ, nên tôi cảm thấy
chán nản quá và không còn kính trọng già Hồ cũng như chủ nghĩa cộng sản nữa.
Tuy nhiên, tôi đã trót làm đảng viên được mấy năm rồi. Thú thật, lúc đó tôi thất
vọng vô cùng!
Trong một xã thuộc huyện
Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa tôi ở độ mười lăm cây số, có một gia đình địa
chủ rất giầu, nắm trong tay gần năm trăm mẫu tư điền. Ông địa chủ giầu lòng
nhân đạo, rất yêu nước thương người. Ông thấy bộ đội sư đoàn 301 của tôi thiếu
ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo tới chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là Trưởng
Phòng Tuyên Huấn và Chính Trị nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của
ông ta, đồng thời đề nghị lên Sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh
danh ông. Riêng tôi rất quý mến và luôn luôn nhớ đến ông. Thế rồi một hôm tôi
nghe tin gia đình ông ấy bị đấu tố. Hai vợ chồng bị đội đấu tố mang ra cho dân
sỉ vả, nhục mạ, rồi chôn xuống đất để hở có cái đầu lên thôi. Xong, họ cho trâu
kéo bừa qua lại hai cái đầu cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ xấu số chỉ
còn có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội đấu tố đuổi ra khỏi
nhà với vài bộ quần áo. Dã man hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được
liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm dân chúng cả
việc lấy các con cái của địa chủ làm vợ làm chồng. Biết chuyện thảm thương
giáng xuống gia đình ông bà địa chủ mà tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô
con gái của họ sinh sống ra sao, vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn
chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé mỗi buổi chiều cứ lén lút đứng
bên ngoài song cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Khi gặp nhau,
cô bé ấy nói vì đi nghe tôi giảng Kiều nhiều hôm để trâu ăn lúa, nên bị bắt phạt…
Lúc gần tới nơi, may sao
tôi gặp cô ta áo quần rách mướp, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom tìm lượm
vài củ khoai mà dân bỏ sót nhét vào túi áo, rồi chùi vội một củ vào quần đưa lên
miệng gặm. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi lại gần hỏi thăm và được cô
ta kể lại rành rọt hôm cha mẹ cô bị đấu tố chết ra sao. Cô ta khóc mếu nói rằng
gặp ai cũng bị xua đuổi; hàng ngày cô phải đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về
ngủ trong cái miếu hoang; cô rất đói khổ lo lắng, không biết ngày mai còn sống
hay sẽ chết vì đói khát! Tôi nghe mà lấy làm thương tâm quá, trong lòng vô cùng
xúc động. Suy nghĩ rất nhiều, tôi quyết định đem cô ta về quê tôi, rồi bất chấp
lệnh cấm, tôi đã lấy cô ta làm vợ. Rất may là sự quyết định của tôi đã không nhầm.
Khi xưa, quê tôi nghèo, nhà tôi cũng nghèo, tôi lại còn ở trong bộ đội nên
không có tiền. Nhưng hai vợ chồng cố gắng chịu đựng đùm bọc nhau bữa đói bữa
no… Cho đến ngày nay, bà ấy đã cho tôi 10 người con ngoan, 6 trai, 4 gái và
cháu nội cháu ngoại hơn 30 đứa!
Trong mấy chục năm dài,
tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày hốt đá đi bán,
túi dắt theo vài quyển sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc giải sầu, lâu lâu nổi
hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi cởi
mở, tôi được tụi nó ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm.
Năm 1988, tôi “tái xuất”
giang hồ sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nhà đèo heo hút gió. Tôi
lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do Hội văn nghệ Lâm Đồng và
tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi
mới thực sự.
Dọc đường đất nước trên
chuyến đi, tôi đã đọc cho công chúng nghe trong những lần gặp gỡ, bài thơ dài mới
nhất tên là “Chuyện tôi về”, một loại
bút ký thơ kể về thời gian “Ba mươi năm
không phải chuyện / Một sớm một chiều/ Một ngày tù đã dài như thế kỷ / Ấy là tù
giữa chợ…” Trong 30 năm đó, kể từ ngày có vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, và 17
năm sau đó nữa, chẳng có ai dám viết… Cũng trong dịp này, tôi được may mắn quen
biết người bạn trẻ yêu nước, thường viết lách dưới bút hiệu Tiêu Dao Bảo Cự. Mến phục nhà trí thức
đa tài đầy nhiệt huyết nầy, tôi đã chép tặng bài thơ Chuyện Di Tề với những câu như sau:
… Tôi là cây
gỗ
vuông
chành
chạnh
suốt đời
đã làm thất bại
mọi âm mưu
đẽo tròn
để muốn tùy
tiện
lăn long lóc
thế nào
thì long lóc
Chân
tính
đấy
hỡi Rìu, Bào
Phó-Mộc
Lần đó, chép xong mấy
câu thơ, tôi đã chỉ tay vào trang giấy nói: “Anh thấy đó chữ Rìu, Bào và Phó-Mộc
viết hoa. Anh biết tôi muốn ám chỉ ai rồi.” Anh bạn trẻ gật đầu tỏ vẻ lĩnh hội!
Chuyện này sau đó tôi
quên tịt, nhưng hẳn là đã để lại trong tâm tư anh ta khá nhiều ấn tượng, bằng
chứng là 17 năm sau, anh bạn trẻ (lúc này 60 tuổi, và tôi cũng đã 90!) lần mò từ
Sài Gòn đến tận nhà thăm tôi! Mặc dù đang cảm nặng, tôi cũng thu gom được chút
lực tàn để hầu chuyện cùng anh, ăn chung với anh một bữa cơm trưa thanh đạm gọi
là đãi khách từ xa tới! Anh bạn trẻ nói chuyện thật vui, hỏi nhiều thứ tôi
không còn nhớ nổi, nhất là những chuyện xảy ra trong chuyến xuyên Việt năm
1988! Nhưng những sự việc trước đó thì tôi nhớ như in, nhất là vào cái thời
chúng nó trù dập Nhân Văn Giai Phẩm. Anh bạn trẻ xin phép hút thuốc lá, tôi
không cho; anh bảo cái gì anh cũng bỏ được, trừ cái tật nghiện thuốc lá! Hừm,
có gì mà không bỏ được?! Cái gì có hại là phải bỏ, cộng sản nó ghê gớm đến thế
mà tôi còn bỏ được, nói chi thuốc lá?! Nể mặt tôi nên anh giữ im lặng, nhưng
tôi thấy rõ ánh bất bình trong mắt anh…
Anh bảo ra về sẽ viết một
bài ký sự ghi lại buổi gặp gỡ đó, và anh đã giữ đúng lời hứa. Lớp trẻ ngày nay
thật tài ba!
Vào tuổi gần đất xa trời,
cuối năm 2004, Công ty Vitek VTB đột nhiên ra đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím
Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài
sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu, trừ thuế còn 90, chia “lộc”
cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu, phòng ốm đau lúc tuổi
già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.
Sau vụ này cũng có một số
công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy tập thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi
làm ra không phải để bán!
HL.
----------------------
Tiếp theo phần (3)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét