Mộc Nhân
về một bài thơ ít người biết của Huỳnh Minh Tâm
Con người và văn hóa là gốc của mọi chuyện trong xã hội. Chỉ có con người mới tạo nên các giá trị văn hóa và đồng thời văn hóa biểu hiện con người. Văn hóa có nhiều dạng thức tồn tại và được biểu hiện qua ngôn ngữ, ứng xử, quan hệ, tập tục, sinh hoạt cộng đồng, di tích...
Khi con người khách quan
hóa, vật thể hóa năng lực ra bên ngoài để ý thức về bản thân, biết tự điều chỉnh
hành vi thì văn hóa gắn liền với nhân cách.
Chuyện về văn hóa là câu
chuyện dài hơi nhiều tập, không thể gói gọn trong một bài viết, càng không thể
nói hết trong một bài thơ. Thế nhưng Huỳnh Minh Tâm đã mạnh dạn gởi gắm những
suy nghĩ của mình về câu chuyện văn hóa qua một bài thơ ngắn - Văn hóa:
“Văn hóa có thời thịnh thời
mạt/ Thời thịnh kẻ sĩ đi cúi đầu/ Áo mẹ sờn vai/ Buồn mà khóc/ Đôi mắt cha mờ cốc
rượu/ Buồn mà khóc/ Vợ thơm tóc thắm/ Vui mà khóc/ Thời mạt kẻ sĩ đi ngẩng đầu/
Áo phong phanh mắt hếch/ Chạm cốc rượu nhớn nhác/ Lên voi xuống chó hể hả/ Vợ đẹp
con ngoan lo toan/ Bạn đó không tri kỷ/ Tình đó chẳng chiếu chăn/ Chữ tràn vành
môi không thấu/ Trăng rung vạt cỏ không hay/ Muốn nói mà không nói/ Chim về
vàng đầu cây”. (hết dẫn)
Cái văn hóa mà Huỳnh Minh Tâm nói đến
trong bài không gì khác hơn là văn hóa ứng xử của kẻ sĩ trong bối cảnh
thời đại.
Đầu bài thơ tác giả đã nêu
lên một cách khái quát về qui luật vận động của văn hóa: "Văn hóa có
thời thịnh thời mạt". Điều ấy là hiển nhiên bởi sự vật hiện tượng trong thế
giới khách quan không phải là bất biến: thịnh - suy, hiện - biến, hưng - vong
là lẽ thường. Và điều quan trọng là tính cách, ứng xử của con người đã thể hiện
trong mạch vận động đó. Thời hưng thịnh ắt sinh trung thần quân tử, thời vong mạt
có lắm nịnh thần tiểu nhân.
Nhưng kẻ sĩ thực sự là người
không uốn mình theo thời thế, không khuất phục hèn hạ, không vong thân vong bản.
Đôi khi "Thời thịnh/ kẻ sĩ đi cúi đầu" nhưng đó là cái cúi
đầu u uẩn - hướng nội - buồn nhiều hơn vui: "Áo mẹ sờn vai/ Buồn mà
khóc/ Đôi mắt cha mờ cốc rượu/ Buồn mà khóc/ Vợ thơm tóc thắm/ Vui mà
khóc".
Trong cái "cúi đầu" đó,
có lẽ Huỳnh Minh Tâm còn trăn trở về cái thực danh mà kẻ sĩ mang trên mình. Dù
chưa nói đến cái chí - khí của kẻ sĩ trong quan hệ xã hội nhưng Huỳnh Minh Tâm
đã nói đúng cái nền tảng gia đình là nơi đầu tiên và cũng là cuối cùng con người
trải nghiệm cái văn hóa làm người. Cách ứng xử có văn hóa giữa những con người
đang sống với nhau trong gia đình là thiêng liêng, bền vững nhất. Đạo làm người
phải từ nền móng gia đình hình thành; văn hóa xã hội bắt đầu từ văn hóa trong
gia đình - chắn chắn vậy.
Vậy nên kẻ sĩ "thời mạt"
cho dù "đi ngẩng đầu" vẫn lộ rõ bản chất của kẻ ngông nghênh, hãnh tiến,
ích kỉ, giả dối, vụ lợi: "Áo phong phanh mắt hếch/ Chạm cốc rượu nhớn
nhác/ Lên voi xuống chó hể hả/ Vợ đẹp con ngoan lo toan/ Bạn đó không tri kỷ/
Tình đó chẳng chiếu chăn/ Chữ tràn vành môi không thấu/ Trăng rung vạt cỏ không
hay"...
***
Nhắc đến cái hành động "cúi
đầu" và "ngẩng đầu" của kẻ sĩ, ta lại nhớ đến người
xưa.
Kẻ sĩ như Cao Bá Quát với
nhân cách còn mãi cho muôn đời dù sống trong thời mạt, sống nghèo khổ nhưng
khinh bỉ những kẻ khom lưng uốn gối để được giàu sang và tin rằng mình có thể tự
thay đổi đời mình; một đời tang bồng ngang dọc chọc trời khuấy nước, không một
lần vì công danh mà chịu khom lưng uốn gối và chỉ biết “cúi đầu” trước
hoa mai: "Thập tải luân giao cầu cổ kiếm/ Nhứt sinh đê thủ bái mai
hoa" (Mười năm giao du tìm cổ kiếm/
Một đời chỉ cúi đầu bái hoa mai).
“Nhất sinh đê thủ bái mai
hoa” có nghĩa là kẻ sĩ như họ Cao đã chọn cho riêng mình một lý tưởng
thiêng liêng cao cả, suốt đời dốc lòng hiến dâng cho cái đẹp, cho điều thiện.
Cao Bá Quát chỉ cúi đầu trước hoa mai, còn khi ngẩng đầu thì ngước
nhìn tận ngoài trời, những muốn vin vào mây mà lên cao mãi (Du vân). Những
cái cúi đầu và ngẩng đầu như thế đã làm cho con người trở
nên cao quý hơn, lớn lao hơn.
Thi sĩ Lý Bạch trong đêm
thanh vắng tha hương Tĩnh dạ tứ,
đối diện với lòng mình mà ngổn ngang trăm mối ưu tư, động tình cố xứ: "Cử
đầu vọng minh nguyệt/ Đê đầu tư cố hương" (Ngẩng đầu ngắm trăng sáng/ Cúi đầu nhớ cố hương).
Kẻ sĩ xưa như thế dù ở
đâu, làm gì cũng không chịu khuất phục, ngạo mạn phóng túng mà vẫn thắm tình đậm
nghĩa, đến chết vẫn một mực giữ tròn khí tiết người quân tử.
***
Trong cái khoảng lặng của văn hóa "Thời thịnh/ Kẻ sĩ đi cúi đầu... Thời
mạt/ Kẻ sĩ đi ngẩng đầu" - Huỳnh Minh Tâm để cho người đọc tự chiêm
nghiệm về nền tảng văn hóa của con người và xã hội dường như đang khủng hoảng,
đảo lộn các giá trị. Và trong khoảng lặng im thinh không đó, có lẽ chút thiên
lương còn lại giúp cho kẻ sĩ thực sự ngộ ra cái "chân
tâm" của bản thể chăng: "Muốn nói mà không nói/ Chim về vàng đầu
cây".
Ẩn sau cái sự "Muốn
nói mà không nói" là thái độ hèn - bất lực của kẻ sĩ thời mạt; mà
cũng có thể là sự chiêm nghiệm như Edouard Herriot nói: “Văn hóa là cái gì
còn lại khi tất cả những cái khác bị quên đi, là cái vẫn thiếu khi người ta đã
học tất cả”!
Chợt nhớ nhà văn Nguyễn
Minh Châu có nói một câu thế này - dù hơi cực đoan nhưng không phải là không có
ý đúng: "Nhà văn Việt Nam cả ba thế hệ đều hèn: trước Cách mạng là
nhà văn nô lệ; từ 1945 đến 1975 là nhà văn – lính, rất sợ cấp trên; sau 1975 là
nhà văn đói nên cũng hèn" - có người đặt thêm vấn đề: "Nhà văn
đương đại có hèn không?”
Câu hỏi ấy xin dành cho mỗi người.
***
Con người tạo ra văn hóa và hưởng thụ văn hóa bằng các hoạt động thực tiễn, được điều khiển bởi thế giới nội tâm rất phức tạp. Cho nên một khi những quan niệm, lý tưởng, niềm tin đã tan biến thì cách ứng xử của con người sẽ "thiếu văn hóa" hay nói cách khác đó là thứ văn hóa của "thời mạt".
Nhìn vào thực trạng hành xử văn hóa của con người Việt Nam hiện nay, nhiều người quá bi quan với các hành vi văn hóa "thời mạt" như: dối trá, ích kỷ, vô cảm, vọng ngoại… Điều ấy không chỉ hiển hiện ở thế hệ đã từng một thời được xem là kẻ sĩ mà phổ biến ở thế hệ trẻ vong bản mà nhà văn Mỹ Ernest Hemingway từng gọi là “thế hệ mất gốc” (Lost Generation). Đành rằng mỗi cá nhân đều phải đối mặt với sự “mất mát” của thế hệ mình như một cách để sinh tồn nhưng sự “mất mát” ngày càng trở nên đáng sợ như một bệnh dịch lây lan thì quả thật là đáng báo động.
***
Tuy nhiên, sứ mệnh của văn nghệ là hướng con người đến những giá trị chân - thiện - mỹ nên chúng ta có quyền tin vào “Cái đẹp nâng đỡ con người” (Dostoievski). Hay nói một cách hình tượng như Huỳnh Minh Tâm trong câu cuối của bài thơ "Văn hóa": "... Chim về vàng đầu cây".
Mà để được như vậy người ta lại nhìn vào văn hóa của kẻ sĩ trước tiên bởi vì dầu sao họ cũng thuộc về "phương diện quốc gia" (chữ của Nguyễn Du) hay nói theo ngôn ngữ hiện đại họ là "chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng" - phải lắm ru!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét